Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015

Thơ Đường luật - Bài 9 - Các thể thức họa thơ Đường Luật - Hoàng Thứ Lang

Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận. 

1. HỌA HẠN VẬN: 

Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải: 

- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn. 

- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định. 

Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau: 

a. Ðầu đề (nội dung) là: 

Trống treo ai dám đánh thùng 
Bậu không ai dám dở mùng chun vô 

b. Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô. 

Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu !!! ... như sau đây: 

Nào phải là ai dám giục xô 
Thuận tình trước hết tự nơi cô 
Có cho mới dám trao dùi đánh 
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô 
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa 
Ham vui quên hết chuyện dâm ô 
Thói hư thuần thước xưa còn lạc 
Đừng học làm chi gióng nhảy rô 

Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:

Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đão Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:

- Đầu đề: Xuân Khuê

- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ

- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.

Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:

Xuân Khuê

Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ

Phan Mạnh Danh

2. HỌA PHÓNG VẬN 

Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề). 

Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.

a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật. 

b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên. 

c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng. 

d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm. 

CHÚ Ý QUAN TRỌNG: Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được. 

Hoạ Thơ bao gồm 2 phần chính quan trọng sau đây:

Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:

1. Họa vần: 5 vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1-2-4-6-8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị Fail.

2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.

3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.

4. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).

Tóm lại 3 yếu tố 1-2-3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.

Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt Nam.

Bài Xướng:

TÔN PHU NHÂN QUI THỤC 
(của Tôn Thọ Tường)

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông 
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc 
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi 
Đá vàng chi để thẹn non sông 
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn 
Thà mất lòng anh được bụng chồng

Bài Họa:

TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Phan Văn Trị) 

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng 
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất 
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết 
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng

Những bài thơ minh họa cho các thể thức Họa Thơ.

1. HOẠ HẠN VẬN:

Thí dụ:

- Hạn đề:
"Trống treo ai dám đánh thùng 
Bậu không ai dám dở mùng chun vô"

- Hạn vận:
Xô - Cô - Vô - Ô - Rô

Bài họa:

Nào phải là ai dám giục xô 
Thuận tình trước hết tự nơi cô 
Có cho mới dám trao dùi đánh 
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô 
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa 
Ham vui quên hết chuyện dâm ô 
Thói hư thuần thước xưa còn lạc 
Đừng học làm chi giống nhảy rô

2. HỌA PHÓNG VẬN: 

Thí dụ 1: 

a. Họa nguyên vận: 

Bài xướng: 

TƯƠNG TƯ 

Tương giang hai đứa ở hai nơi 
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời 
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi 
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi 
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ 
Nét chữ run run ý cạn lời 
Định số an bài mang khổ hận 
Đêm trường thổn thức máu tim rơi 

Hoàng Thứ Lang 

Bài họa: 

TƯƠNG TƯ 

Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi 
Về đâu trên vạn nẻo đường đời 
Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi 
Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi 
Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý 
Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời 
Dòng sông ly biệt nào chia lối 
Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi 

Hoàng Thứ Lang 

b. Họa đảo vận: 

Bài xướng: 

TƯƠNG TƯ 

Tương giang hai đứa ở hai nơi 
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời 
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi 
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi 
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ 
Nét chữ run run ý cạn lời 
Định số an bài mang khổ hận 
Đêm trường thổn thức máu tim rơi 

Hoàng Thứ Lang 

Bài họa: 

TƯƠNG TƯ 

Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi 
Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời 
Hai hàng lệ tủi than trời hỡi 
Một áng thơ sầu khóc bạn ơi 
Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp 
Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời 
Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ 
Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi 

Hoàng Thứ Lang 

c. Họa hoán vận: 

Bài xướng: 

TƯƠNG TƯ 

Tương giang hai đứa ở hai nơi 
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời 
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi 
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi 
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ 
Nét chữ run run ý cạn lời 
Định số an bài mang khổ hận 
Đêm trường thổn thức máu tim rơi 

Hoàng Thứ Lang 

Bài họa: 

TƯƠNG TƯ 

Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời 
Trao người yêu dấu của tôi ơi 
Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối 
Bến mộng đôi bờ phải khác nơi 
Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ 
Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi 
Ai xui hai đứa mình dang dở 
Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời 

Hoàng Thứ Lang 

d. Họa tá vận (mượn vần): 

Bài xướng: 

TRUNG THU

Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm

Hoàng Thứ Lang

Bài họa: 

XIN XĂM

Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
Khấn nguyện bình an đến trọn năm
Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
Đưa tay vói rút ồ hên quá
Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm

Trâm Anh

Hoạ thơ Đường luật

Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng. Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú.

Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8. 

Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc). 

Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối. 

Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.

Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.

Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.

Thí dụ:

Bài xướng:

Vườn rau Cẩm Tú

Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang 
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng 
Củ cải gieo gần dây mướp đắng 
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang 
Thì là diếp cá lên muôn lối 
Húng đổi cần tây mọc khắp đàng 
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt 
Tha hồ cải thiện bữa ăn...sang 

Cẩm Tú

Bài hoạ::

Vườn rau Cẩm Tú

Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại...sang

Hoàng Thứ Lang

Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước. Lỗi nầy gọi là khắc lục (nghĩa là kỵ chữ thứ 6).

5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.

Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài hoạ phải cùng một tựa đề với bài xướng.

Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng !

Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.

Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.

Bài đọc thêm

Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.

Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng. Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.

Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.

Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.

Hoạ thơ là "vẽ lại" hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.

Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.

Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.

Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.

Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.

Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng hoạ với nhau, có thể dùng thể thức Hoạ Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ.

Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào hoạ nguiyên vận theo chính hoạ được. Chúng ta có thể hoạ tá vận (mượn vần) theo bàng hoạ là xa xa, từ xa, đàng xa v.v... chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.

Chúng ta học thơ Đường luật chính thể, cho nên phải học kỹ về chính luật, chính vận, chính đối, chính hoạ.

Thông vận, bàng đối và bàng hoạ... không xuất sắc.

Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét