Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Thơ ngụ ngôn - Nguyễn Trọng Thuật

1. CON VE CON BỌ NGỰA CON CHIM CHÍCH VÀ CÁI HỐ SÂU
2. THẦN SÔNG VỚI THẦN BỂ  
3. CON BỌ NGỰA VỚI CÁI BÁNH XE
4. LÃO NGƯỜI NƯỚC TỐNG VỚI RUỘNG LÚA 
5. THẰNG ĂN CẮP GÀ
6. ANH CHÀNG NƯỚC TỀ VỚI HAI NGƯỜI VỢ
7. CON TRAI VỚI CON CÒ
8. NGƯỜI BIỆN TRANG VỚI HAI CON HỔ
9. ÔNG LÃO TRÊN CỬA ẢI VỚI CON NGỰA
10. HỘI NGHỊ SÚC VẬT
11. CON VE VỚI CON NHẶNG
12. THẦY GIÁO VÀ CẬU GIÁP
13. HAI MẸ CON VỚI MIẾNG SẮT
14. ĐẦU ĐUÔI CON RẮN
15. CON KIẾN
16. NGƯỜI BUÔN CHĂN 
17. NGƯỜI MƯỜNG VÀ CON BÊ
18. SƯ TỬ VÀ CON CHIM NON
19. PHƯỜNG CHÈO VÀ VỢ
20. LƯỠI CẦY VÀ LƯỠI DAO GĂM
21. CÁ MỰC VÀ CÁ TRÍCH
22. GẠCH VÀ NGÓI
23. DIỀU VÀ GIÓ
24. LỆNH CHÚA ÔN
25. ĐẦM VÀ SÔNG
26. VỢ CHỒNG CÓC
27. NGƯỜI SĂN PHƯỢNG HOÀNG
28. NGỰA VÀ KIẾN
29. TRE VÀ TRÚC
30. HỒNG VÀ BÀNG
31. MÁY BAY VÀ ĐÀN NHẠN
32. LỬA VÀ GIÓ
33. THỊT VÀ XƯƠNG
34. MÈO CÁI GIÀ ĐEO CHUỖI TRÀNG HẠT 
35. CON MỐI VÀ CON KIẾN  
36. CON KÉT
37. CON ẾCH
38. LẤY THÚNG ÚP VOI
39. CHIM CHÍCH VỚI BỒ NÔNG

I. Ngụ ngôn cổ Trung Hoa và Việt Nam - Nguyễn Trọng Thuật 

1. CON VE CON BỌ NGỰA CON CHIM CHÍCH VÀ CÁI HỐ SÂU
(Ngô Việt Xuân Thu)

Vua Phù Sai nước Ngô ngày trước,
Hay đem binh đi cướp nước người,
Vậy nên thái-tử can ngài,
Diễn ra một kịch mượn lời can khuyên 
Tay cầm nỏ áo xiêm lấm ướt,
Từ ngoài vườn dảo bước vào đền. 
Vua cha bèn hỏi sự-duyên,
Thái tử đem việc tâu lên bệ rằng : 
“Con vừa mới ở trong vườn nọ
Cảm một điều cũng có nghĩa hay :
Con ve đậu ở cành cây
Ngâm-nga tự-đắc chốn này đã yên.
Con bọ-ngựa giơ liền rón-rén,
Nấp cành bên chực chém chết ve.
Bọ ngựa có ý xun-xoe,
Hay đâu chim chích nhằm-nhè sau lưng.
Chim chích đứng không từng động cựa,
Định mổ con bọ ngựa nuốt phăng,
Ngờ đâu lại có hạ thần,
Nấp xa giương nỏ đang nhằm bắn chim.
Hạ thần mải không nhìn sau trước,
Cái hố sâu nhỡ trượt chân vào.
Ướt xiêm lấm cả áo bào,
Vội vàng vác nỏ chạy nhào về đây.”
Vua cha phán : “Ấy mày thật dại,
Tham lời không nghĩ hại về sau.” 
Phán thôi Thái-tử liền tâu : 
“Ở đời cái dại biết đâu là chừng.
Kìa nước Lỗ lễ-văn nho giáo,
Nước Tề toan cường-bạo diệt đi;
Ngờ đâu Ngô đến tức thì,
Đánh Tề những muốn thu về nước Ngô.
Nay nước Vệ là thù bên cạnh,
Không đánh Ngô mộ lính đi đâu ? 
Đó là lợi trước hại sau,
Ở đời cái dại biết đâu là chừng.”
Vua cha quở : “Xí ! thằng ương dở,
Đừng lắm lời để lỡ việc ta.”
Tạ từ Thái-tử lui ra,
Không lâu câu chuyện ấy mà nghiệm ngay.

2. THẦN SÔNG VỚI THẦN BỂ  
(Sách Trang Tử)

Thần sông nọ ngắm trông sông nước,
Không đâu đâu nước được như mình,
Cõi bờ mặc sức tung-hoành,
Bao-la khắp chốn thị thành thôn quê.
Trên nguồn suối một bề qui-thuận,
Dưới kênh ngòi đều phận con em;
Hồ đầm xá kể bọn hèn,
Họa chăng có Bể đọ xem thế nào.
Ra bờ bể trông vào làn nước,
Thấy phất-phơ thần Nhược, thần Dương.
Trùng trùng sóng nước mênh-mang,
Thuộc quyền thần Nhược chủ-trương gần bờ.
Ngoài xa nữa mờ mờ sóng bạc,
Cõi thần Dương man-mác liền trời.
Tuyệt với tít khắp mù khơi,
Không còn nhìn nhận đâu nơi bến bờ.
Thần Sông lúc bấy giờ kinh dị,
Vái hai thần tự nghĩ than thân :
Ở nhà mình cứ tự-căng,
Ra ngoài nào có thấm bằng ai đâu !”

3. CON BỌ NGỰA VỚI CÁI BÁNH XE
(Hàn-thị ngoại truyện, diễn sách Trang-tử)

Vua Tề-trang đi xe ra cửa,
Thấy một con bọ ngựa đứng bên;
Bánh xe sắp tới đè lên,
Nó chạy không kịp giơ liền ra oai.
Tên đánh xe thưa : “Ngài coi đó,
“Con bọ kia có rõ dại không?
“Dại đâu dại lạ dại lùng
“Thà rằng chịu chết còn hòng chém xe.”
Vua Tề-trang không nghe lời nịnh,
Ngài vội-vàng truyền “Tránh xe đi !
“Con bọ này giỏi đó mi,
“Nó dù van lạy xe mi tha nào.”
Vua Tề-trang thật hào-hiệp lắm,
Con bọ ngựa cũng chẳng hèn gì.
Bên đắc thế, bên lâm nguy,
Bên thì có lượng, bên thì có gan.

4. LÃO NGƯỜI NƯỚC TỐNG VỚI RUỘNG LÚA 
(Sách Mạnh-Tử)

Lão người nước Tống một hôm,
Đi ra đồng áng thăm nom lúa nhà,
Thấy lúa kém lúa người ta
Vội-vàng cầm cổ lúa mà kéo lên.
Hết ruộng dưới đến ruộng trên
Một mình huỳnh-huỵch liên-miên tối ngày.
Chạy về bảo vợ con hay :
“Này, ta phải bữa hôm nay mệt nhoài.
“Thương lúa chẳng nỡ bỏ hoài,
“Giúp cho chóng lớn ở ngoài đồng ta.”
Sáng mai con cái chạy ra,
Thì lúa đã nỏ như là rơm khô.
Lẽ thường nhỏ mới có to,
Vội-vàng muốn chóng, muốn cho nhọc mình.

5. THẰNG ĂN CẮP GÀ
(Sách Mạnh-Tử)

Ở đời biết lỗi khó thay,
Biết lỗi mà dám bỏ ngay mới là.
Có một thằng ăn cắp gà,
Ngày một con, tháng đủ ba mươi ngày.
Người ta bảo nó rằng : “Mày
“Làm điều bất nghĩa nghề này không nên.”
Thằng ăn cắp trả lời liền :
“Từ nay mỗi tháng ta xin một gà,
“Chẳng bao tháng lại ngày qua,
“Hễ sang năm mới là ta xin chừa.”
Ấy thằng nói mới hợm chưa,
Biết xấu sao chẳng bây giờ chừa ngay?
Oâng Mạnh-tử nói chuyện này,
Ví chuyện giảm thuế qua ngày lần-khân.

6. ANH CHÀNG NƯỚC TỀ VỚI HAI NGƯỜI VỢ
(Sách Mạnh Tử)

Sĩ phu đời chiến-quốc kia,
Đêm đi van lạy ngày thì kiêu-căng.
Oâng Mạnh ghét những thằng vô-sỉ,
Đặt chuyện này ngụ ý cười chê;
Anh chàng hai vợ nước Tề,
Sáng thì đi mất, tối về no say.
Ngày nào cũng như ngày hôm đó,
Khoe rằng chơi dặt chỗ sang giàu.
Nay quan lớn giũ đánh chầu,
Mai cụ lớn ép ngồi hầu tiệc-xuân.
Người vợ cả phân-vân trong trí.
Hỏi vợ hai : “Dì nghĩ làm sao,
“Chàng khoe những bạn quan cao,
“Mà ta chẳng thấy quan nào đến đây ? “
Người vợ cả sáng mai theo hút,
Liệu chiều đi lẩn-lút đằng sau;
Được ông chồng cứ bước mau,
Khắp vùng chẳng thấy quan đâu chuyện-trò.
Sau đến một cái gò bên trại.
Có người vừa “tạ bái” một mâm.
Đức ông chồng đứng xin ăn,
Nhưng đồ “thừa huệ” xem chừng chửa no.
Oâng chồng lại lò-dò đi nữa,
Vợ cả bèn sấp ngửa chạy về.
Hai vợ ngồi khóc đầu hè : 
“Thằng chồng ta nó để bia miệng cười.
“Đời phú quý ra đời khất-cái,
“Chi em ta phận gái biết sao ?”
Nhưng chồng có biết đâu nào,
Xăm-xăm ngoài ngõ đi vào vênh-vang.

7. CON TRAI VỚI CON CÒ
(Chiến Quốc Sách)

Bên sông Dịch-thuỷ ngày xưa,
Trai cò hai chú đều vừa đi ăn.
Trai há miệng định nhằm kiếm miếng.
Cò tới nơi mổ nghiến ngay vào.
Trai đau quặp mỏ lại mau,
Kẹp cò mỏ dẫu thế nào không tha.
Cò đau mỏ rút ra không tuột,
Lại ấn thêm vào ruột chú trai.
Trai đau cứ kẹp chặt hoài,
Chẳng ai là chịu nhường ai lúc này.
Trai rằng : “Giữ hai ngày không thả,
“Thì thằng cò chết lả không sai”.
Cò rằng : “Chỉ nay với mai,
“Trời không mưa xuống thằng trai khô ròn”.
Đang đối đáp om-xòm bên bãi,
Lão thuyền chài hớt-hải đi qua,
Cười thầm : “Trời để dành ta!”
Bắt trai, cò bỏ rỏ mà tếch ngay.
Tô-Đại đặt chuyện này ngày trước,
Ví Triệu, Yên hai nước giao-công;
Trai cò thế bất tương dong,
Nước Tần bên cạnh là ông thuyền chài.

8. NGƯỜI BIỆN TRANG VỚI HAI CON HỔ
(Chiến Quốc Sách)

Biện-Trang nhân lúc đi đâu,
Gặp hai con hổ cắn nhau giữa đường.
Đương vật lộn và đương cào cắn,
Tên người nhà toan sấn vào đâm.
Biện-Trang giữ lại can ngăn :
“Để yên ta hẵng dừng chân đợi chờ.
“Nếu mà vội bây giờ thì dại,
“Tất hai con quay lại cắn ta,
“Chi bằng ta tạm lùi ra,
“Rồi đâm có một, thế mà được hai.”
Quả nhiên đợi một vài phút nữa,
Thì một con ngã ngửa nằm trơ,
Một con đau mệt lờ-đờ,
Biện-Trang lập tức liền giơ gươm vào,
Đâm con mệt té nhào xuống cỏ,
Được đôi hùm có khó gì đâu.
Đó là một chước rất sâu,
Của người Trần-Trẩn xưa tâu vua Tần.
Ví Hàn, Nguỵ hai quân giao chiến,
Thì Tần đừng vội tiến quân sang,
Chờ cho chiến cục hồ tàn,
Đâm hùm dùng kế Biện-Trang trên này.

9. ÔNG LÃO TRÊN CỬA ẢI VỚI CON NGỰA

Một ông lão ở trên cửa ải,
Đương cái khi thời đại nhà Tần.
Nhà ông cũng đủ bát ăn,
Nuôi được con ngựa đáng trăm nén vàng.
Bỗng đâu ngựa lạc đàn đi mất,
Người trong làng tấp nập hỏi thăm.
Oâng rằng “Cùng chửa biết chừng,
“Mất ngựa mà đã hẳn rằng hoạ đâu?”
Ngờ đâu đến hôm sau thấy ngựa,
Nó rủ về con nữa cực hay.
Người làng ai cũng mừng thay,
Oâng rằng : “Đã chắc việc này phúc chưa?”
Cậu con ông rất ưa ngựa mới,
Ngày hôm nào cũng cưỡi nhung-nhăng,
Thế nào ngã ngựa què chân,
Người làng kéo đến ân cần xót-xa.
Oâng rằng : “Có chi mà nhăn-nhó,
“Cháu gẫy chân may có phúc lành”
Quả nhiên vua đắp Tràng-thành,
Dài hơn muôn dặm giễu quanh biên thuỳ.
Trai-tráng bắt phải đi phu hết,
Gẫy chân tay, ốm, chết biết bao.
Con ông què được “miễn-dao”,
Nhà ông con một phúc nào còn hơn.
Ấy hoạ phúc vô-môn là thế,
Chắc chi mà vội kể dở hay,
Dở hay chắc tại lòng này.

10. HỘI NGHỊ SÚC VẬT
(Văn Cổ Việt-Nam, khuyết danh, bài viết vào đời Hậu Lê, đầu bài là : “Đại Ngưu Ngôn” )

Trong súc-vật trâu công nghiệp nhất,
Đứng đầu ra cắt đặt chức quyền.
Đạt tờ mời các hội-viên,
Gà, mèo, chó, lợn họp phiên hội-đồng.
Trâu rằng : “Cứ phép trong xã-hội,
Công không quên mà tội không tha.
Biết thời tiết có bác gà,
Tư thiên giữ chức liệu mà báo tri.
Bắt chuột, chú mèo kia thiện nghệ,
Giữ thóc kho chớ để hư hao.
Đêm hôm thức nhắc ra vào,
Tuần phòng cậu chó ai nào dám ra.
Còn tên lợn ăn no lại ngủ,
Chờ béo rổi đem mổ thịt ăn.”
Lợn còn kháng-nghị cãi rằng : 
“Tôi làm gì tội thì phân cho tường.”
Rằng : “Thức thời, mi nhường gà nọ,
Phòng gian phi, thua chó đêm tăm.
Coi kho, kém mãn tài-năng,
Ngu lười ở bẩn lại ăn hại đời.
Sống vô ích cho thời cho thế,
Không giết đi thì để làm chi?” *11

11. CON VE VỚI CON NHẶNG 
(Văn Cổ Việt-Nam bài này đầu đề là : “Vũ Trùng Giốc Thắng”

Áo the lướt-thướt phong-phanh,
Ấy ve thi-sĩ trên cành ngâm vang.
Áo lam biếc dát vàng mũ đỏ,
Nhặng đại gia nhăng-nhố chạy vào.
Ai ô-trọc ai thanh-cao,
Cùng nhau tranh luận biết bao nhiêu lời,
Nhặng hỏi trước : “Sao người rên-rỉ?”
Ve đáp : “Ta chỉ vị thương đời”.
Nhặng rằng : “Sao chẳng thúc thời
Nghêu-ngao đồ xác nay đời ai ưa. *12
Càng dãi nắng dầm mưa càng dại,
Đời đang vui sao lại ngâm sầu ?”
Ve rằng : “Quý khách ở đâu”
Nhặng rằng : “Từ chốn nhà lầu ra chơi
Từng dự khắp mọi nơi yến tiệc,
Miếng đỉnh chung trải hết trân cam”
Ve: “Bác nhẫn-tâm làm.
Thế thì bác hưởng giàu sang đáng rồi.
Xưa những chỗ tanh hôi dơ bẩn.
Ai mà không phải lẩn cho xa.
Bác thì luồn lọt vào ra.
Những nơi như thế mới là no say.
Chỗ thành-quách chẳng may thất-thủ.
Ai không thường “bộc lộ” gớm-ghê
Bác thì càng được no-nê,
Quý hồ thích khẩu chẳng hề động tâm.
Bác lấy thế làm hâm làm mộ,
Ta ngậm hơi cam lộ làm ngon
Tuyết sương chi há hao mòn,
Tiêu hao mấy tiếng hú hồn non sông.
Ai nghe mặc ai không cũng mặc,
Thú cỏ hoa tự đắc một mình.”
Nhặng nghe ve nói bất bình,
Thẳng bay về chỗ mành mành trước hiên.

II. Ngụ ngôn mới Việt Nam - Nguyễn Trọng Thuật

12. THẦY GIÁO VÀ CẬU GIÁP

Yêu người ta bằng mình ta vậy.
Đạo Chúa trời thường dạy con chiên.
Đạo Nho, Đức Khổng cần quyền,
Sự mình không muốn chớ nên đãi người.
Ví giữ được hai lời Thánh huấn
Thì ai còn oán hận chi nhau.
Chỉ vì đọc trước quên sau,
Muôn dân máu lụt, năm châu khói mù.
Xem một cậu học trò bị phạt.
thì suy ra giao ác việc đời.
Học đường đang lúc giờ chơi,
Giáp tát mặt bạn rồi cười lỉnh ngay.
Bạn tức giận thưa thầy sự thể,
Thầy dạy rằng : “Hãy để tội cho.”
Ngày kia đông mặt học trò,
Gọi Giáp thầy mới dạy cho một bài. 
Giơ tay ra bạt tai một chiếc,
Hỏi luôn rằng : “Có biết đau không?”
Thầy tát thế có bằng lòng,
Thì con cứ thực nói cùng thầy hay!”
Giáp nhăn-nhó rằng : “Thầy xử tệ.
Tát đau tôi, mất thể diện tôi.”
Rằng : “Thầy cũng biết lỗi rồi.
Vì con phải thí nghiệm thôi đó mà.
Trời sinh ai cũng da cũng thịt
Cũng tính tình cảm biết khác nao.
Mình đau mình nhục làm sao,
Người đau nhục thế, ai nào khác ai.
Con có nhớ tát người hôm nọ?
Hắn có đau và có nhục chăng?
Từ nay phải nhớ luôn rằng : 
Muốn không ai tát thì đừng tát ai.
Học thực nghiệm bằng mười học sách,
Nghĩ kỹ xem chớ trách thầy nhe !”
Giáp vâng lời dạy lui ra,
Biết thầy dạy phải nhưng mà còn đau.

13. HAI MẸ CON VỚI MIẾNG SẮT

Bà mẹ đứng xem con đang học,
Coi ra chiều khó nhọc ươn oai.
Bà đưa cho miếng sắt dài, 
Rằng : “Đem ra đá mà mài thành kim.”

Cậu cầm lấy vừa nhìn vừa ngại,
Bà giục luôn cậu phải đem ra.
Mài răm ba cái qua loa,
Rằng : Con mài dẫu đến già không xong.

Bà khẽ nói con trông xuống đá,
Có thấy gì dính đá hay không?
Cậu rờ tay xuống thưa rằng: 
Có ít mạt sắt sáng chưng đây rồi.

Bà cười nói : Con ơi coi đó,
Sắt đã mòn, mài nhỏ khó chi.
Thành kim cũng chẳng lâu gì,
Suy ra đến sự học kia khác nào.
Con chăm chỉ hôm nào cũng thế,
Làm thánh hiền cũng dễ đấy con.

Thơ Ngụ Ngôn Nguyễn Văn Ngọc

14. ĐẦU ĐUÔI CON RẮN

Một hôm đuôi rắn bảo đầu :
“Mày nhường tao trước, mày sau xem nào …”
Đầu rằng : “Mày nói lạ sao !
Vẫn tao đi trước, tranh tao làm gì?”
Nói rồi, đầu cứ bò đi,
Cái đuôi uốn khúc bám ghì cội cây.
Đầu e đuôi nó làm ngầy,
Đành nhường đuôi trước khỏi rày đua tranh.
Nào ngờ tấp-tểnh đi nhanh,
Đuôi không có mắt, cuốn quanh chạy liều.
Bò trên sườn núi cheo-veo,
Rơi vào hố lửa lăn queo rẫy hoài.
Lò than lửa bốc rực giời,
Cháy mình rắn, cháy cả hai đuôi đầu.
Vì không mắt, lại lau-chau,
Mình ngu lại muốn đứng đầu kẻ khôn.
Dắt nhau vào chỗ chết chôn,
Thằng mù làm hại thằng còn con ngươi.

15. CON KIẾN

Một con trâu
Đi cầy về
Con kiến bậu
Trên sừng coi ti toe
Cả bọn kiến
Lấy làm ghê
Hỏi rằng : “Chị
Đi đâu mà le-te?”
-“Ơi chao ! Ra các chị không biết:
Tôi đi cầy về xiết bao nặng-nề”

16. NGƯỜI BUÔN CHĂN 

Chú lái buôn chăn cưỡi con lạc-đà,
Qua nơi đồng cát, đàng còn xa.
Không may lạc đà bị chết khát,
Tiếc của anh ta lột lấy da.
Coi da quý báu, giặn đầy tớ,
Gìn-giữ đừng cho nước thấm qua.
Đầy tớ vâng như lời chủ dặn,
Giữa đường bỗng gặp cơn mưa sa,
Lấy chăn bọc kẻo da đà ướt, 
Da đà không ướt, ướt chăn hoa.
Chăn bị nước mưa, thành nát hỏng
Bao nhiêu vốn liếng đi đời ma.
Rõ tham một mảnh, bỏ cả gói,
Chú lái buôn chăn sao dại mà.

17. NGƯỜI MƯỜNG VÀ CON BÊ

Một người mường có con bê nhỏ,
Cơ nghiệp nhà trông có con bê.
Rừng sâu khuất nẻo đi về,
Vẫn từng lo cọp bắt bê của mình
Ngày đem mé rừng xanh thả cỏ,
Thường cầu thần ủng hộ con bê.
Hôm cầu : Bà Chúa Rừng Huê
Hôm cầu : Thần Núi chở-che phù-trì.
Hôm thì khấn : Thổ-kỳ, Thổ-địa,
Hôm thì kêu : chư vị bách linh.
Con bê nhờ phúc yên bình,
Ngày ngày quen thú cỏ xanh rừng hồng.
Mường gặp buổi xa vùng dời bước
Thả bê rồi khấn trước chư linh
Các thần trên cõi rừng xanh
Thần Đa, thần Gạo, thần Sanh, thần Đề.
Khấn hết cả thần Khe, thần Đống.
Hưng-đạo-vương, Phù-đổng thiên-vương.
Mười hai bà Chúa, bà Nàng,
Ông Sừng-sỏ-sắt, ông Cường-bạo-quân.
Nguyện tất cả vạn Thần, thiên Phật,
Niệm Di-đà, La-mật, Thích-ca.
Khấn rằng : “Nay phải đi xa,
“Các ngài gìn-giữ cửa nhà hộ con.
“Con bê nọ may còn sống sót,
“Cọp không lôi ăn lọt là hơn”.
Khấn rồi vái lạy giang sơn,
Thả bê ăn cỏ, nhơn-nhơn tìm ngàn.
Kịp ngày tốt, bàn-hoàn trở lại,
Thì con bê đã phải cọp xơi.
Tan-tành thịt nát xương rơi
Phanh thây móng vuốt làm mồi răng nanh.
Bởi Mường khấn, chư linh trì hộ,
Nên ông này chắc có bà kia.
Thành ra có một con bê,
Không ai nhòm đến, phò về cọp tha.
Thật nhiều sãi, chùa nhà ai đóng,
Kìa cha chung ai giọng khóc thương. *14
Ngán thay cho nỗi anh Mường,
Quá lời khấn hết Thành-hoàng, Thổ-công.

18. SƯ TỬ VÀ CON CHIM NON

Vua sư-tử vuốt nanh lẫm-liệt,
Các thú cầm len-lét sợ oai.
Gầm lên một tiếng lưng trời,
Quanh vùng cọp nép, nửa vời chim sa.
Một hôm bắt voi ngà ăn thịt,
Miếng giòn, toan nhá hết cả xương.
Ngờ đâu nhai nuốt vội-vàng,
Chiếc xương mắc ngạnh nằm ngang dưới hầu.
Vua sư-tử lắc đầu há họng,
Chợt chim con bay bổng xa khơi.
Rằng : “Ơi hỡi ! hỡi chim ôi !”
Mi vào miệng chúa tìm tòi gỡ xương,
Hết lòng cấp cứu lương phương,
Được mồi, sau chúa sẽ nhường cho luôn.”
Chim nghe nói bay luồn vào cổ,
Gạy mỏ liền rút mổ xương ra.
Khen : “Sao thuốc hóc giỏi mà!
Ơn này chúa giả đến già dám quên.”

Vua sư-tử sau liền khỏi bệnh,
Các chim bay, thú mạnh tìm ăn.
Cao lương, mỹ vị vô ngần,
Chim con vội đến kể ân trước, đòi.
Sư-tử bảo : “Ta nòi sơi thịt,
Từng ăn tanh, uống huyết đã quen.
Như mày chút phận nhỏ-nhen,
Lọt vào miệng, lại đề tuyền cho ra.
Mày không biết ta tha là tốt,
Nên nay còn sống sót mạng kia.
Ơn ta chưa chút giả về,
Lại còn nỏ mỏ chi bề kể ơn?”
Chim nghe nói nguồn cơn năn-nỉ,
Sư-tử còn nhất vị không nghe.

Chim đành phải chịu một bề,
Phận mình bé mọn, dám hề gậy răng
Bèn chắp cánh về rừng nín lặng,
Chờ đến khi giời vẳng non cao.
Vua đang giở giấc rừng đào,
Liền đưa mỏ sắc mổ vào con ngươi.
Sư-tử chết rẫy-rời kêu rộ,
Hỏi : “Sao mày dám mổ mắt ta?”
Con chim đậu chót ngành hoa,
Rằng : “Xưa ông hứa những là làm sao?
Tôi sở dĩ mổ vào con mắt,
Không phải là oán vặt thù riêng.
Muốn ông kẻ cả thần thiêng,
Nói lời vàng đá, giữ diềng chớ sai.
Đòn đau, nhời phải nhớ nhời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay” 

Thơ Ngụ Ngôn Nam Hương

19. PHƯỜNG CHÈO VÀ VỢ

Đêm thanh vắng, phường chèo nhủ vợ :
“ Nay ở nhà, nghĩ nhớ những khi...
Ngồi trên sân khấu uy nghi,
Đóng vai thiên tử trị vì muôn dân;
Cũng đủ cả quần thần thị vệ,
Cũng tung hô vạn tuế thiên uy.
Đường hoàng từ cái bước đi,
Giống vua, thực chẳng khác gì mảy-may !
Hồi tưởng lại đến nay còn thấy,
Như tiếng mình lừng-lẫy gần xa.”
Vợ nghe chồng nói, cười khà :
“ Làm vua thực sự, hoặc là ăn thua.
Chớ chàng đóng vai vua giống quá,
Có khác gì đồ mã đốt đi.
Giống mà không ích lợi chi,
Chẳng thà đừng giống đỡ khi người nhầm”.

20. LƯỠI CẦY VÀ LƯỠI DAO GĂM

Một thằng đại bợm xưa nay,
Đêm đêm vác cái lưỡi cầy đi ra.
Thôi thì lấy của đốt nhà,
Một tay giết hại người ta đã nhiều. 
Lưỡi cầy đã chẳng tự kiêu,
Lại còn thổ-lộ mấy điều tâm can.
“Trời sinh lòng tốt nết ngoan,
Chẳng may gặp phải đứa gian làm thầy.
Thật là phí một đời hay,
Tủi thân càng nghĩ đêm ngày càng căm!”
Một người được lưỡi dao găm
Đem về bới đất giòng dăm, giồng hành,
Giồng mùi, giồng ớt, giồng chanh;
Chẳng bao lâu nữa đã thành vườn rau.
Dao găm đắc ý gật đầu,
Cảm tình ngẫu hứng mấy câu tả tình.
“Ngồi mà ngẫm cái thân mình,
Con nhà trộm cắp nay thành lương dân
Làm ăn rất đỗi chuyên cần,
Chẳng qua chỉ tại may chân gặp thầy !”

21. CÁ MỰC VÀ CÁ TRÍCH

Một con cá mực đang bơi
Gặp đàn tôm ruốc muốn sơi một mình.
Lo rằng hàng xóm chung quanh,
Họ mà trông thấy, họ tranh mất mồi.
Lòng tham chẳng nghĩ xa-xôi,
Đùn ra một chất tanh hôi lạ-lùng;
Làm cho mặt nước biển trong,
Đen ngòm như mực, chẳng trông thấy gì.
Mấy con cá trích đang đi,
Dừng chân đứng lại, thầm-thì cùng nhau:
“Giận thay! Cái giống to đầu!
Râu hùm hàm én ngờ đâu đê hèn 
Chỉ vì chút lợi nhỏ-nhen,
Làm cho cả nước tối đen như mù!”

22. GẠCH VÀ NGÓI

Gạch hỏi ngói : “đôi ta dù khác,
Mà giống nòi chất phác như nhau;
Cớ sao bất cứ đâu đâu,
Các cô cũng ở trên đầu chúng tôi?
Hay trần thế lắm người tây vị,
Khiến đôi mình kẻ quý người khinh.”
Ngói rằng : “Anh chửa thấu tình,
Hai ta mỗi đứa một hình trời cho.
Anh lực lưỡng, việc to gánh vác,
Xây bức tường nhà gác nguy-nga.
Mong manh như thể đàn bà,
Che mưa đỡ nắng ấy là phận tôi”.

23. DIỀU VÀ GIÓ

Diều vằng tăm tắp trên không *16
Nhìn qua xuống đám bụi hồng mà khinh.
Thấy người ta ngợi khen mình,
Lại càng lên mãi như hình không ai.
Gió bèn đến cạnh rỉ tai :
“Công ta khó nhọc nghĩ hoài uổng thay!
Vì ta mi mới lên đây,
Mà giương thẳng cánh, mà bay giữa trời.
Thế gian đứng dưới cõi đời,
Ai ai cũng chỉ một lời : “Diều lên.”
Đến khi trời lặng gió yên,
Diều vằng đâm ngả bổ nghiêng xuống đồng.”
Trăm nghìn con mắt cùng trông,
Thấy ngươi thất thế đem lòng trách ta:
Rằng vì gió yếu sui ra…
Không nhưng diều vẫn trên xa tuyệt vời!
Nhân tâm nghĩ cũng nực cười :
Công không kể đến, tội thời trưng ngay.

24. LỆNH CHÚA ÔN

Mùa xuân tạnh ráo,
Nắng hạ nấu nung,
Ở dưới âm cung,
Chúa ôn nổi trống : 
Truyền quan Đô-thống
Là lão Tử-thần
Dẫn đại tướng quân
Là thần Dịch-tả,
Điểm ba quân mã,
Lên phá cõi đời.
Nước uống chửa sôi,
Tiên phong đi trước ! 
Đánh nhau hay được,
Ruồi muỗi các ngươi
Tràn khắp mọi nơi,
Tìm người truyền bệnh !
Quả xanh cũng mạnh,
Rau sống cũng tài
Trọng dụng cả hai,
Cho đi ủng hộ! 
Sự Vô điều độ,
Có chí xa gần,
Giữ ở trung quân,
Cho làm mưu sĩ.
Sự Tin ma quỷ,
Tổn phí tiền nong,
Ấy cũng có công,
Cho đi tập hậu.
Đồ ăn chưa nấu,
Hoặc nấu dở dang,
Coi việc tải lương,
Tiếp ba quân sĩ,
Lệnh quân có thế, 
Ai dám không tuân,
Bất cứ sơ thân,
Đem mà chính pháp !

25. ĐẦM VÀ SÔNG

Một hôm đầm hỏi sông:
“Sao anh cứ chạy dông?
“Anh chẳng xem tôi đó,
“Ở yên có được không?”
Sông nghe bèn đáp lại :
“Nhời anh nói cũng phải;
“Nhưng tôi lại nghĩ rằng
“Ở dưng thường có hại.
“Như anh quen ở không,
“Mặt nước tuy có trong,
“Nhưng vì không chuyển vận
“Chất bẩn đọng trong lòng.
“Như tôi ưa sinh hoạt,
“Bèo nước trôi tan nát,
“Nhưng mà ruột sạch tinh,
“Là vì chảy lưu loát.
“Nước tôi bởi tự nguồn,
“Mặt trời chiếu thấu luôn,
“Da đỏ và người khoẻ, *17
“Vui-vẻ chớ không buồn.”

26. VỢ CHỒNG CÓC

Cóc nghe dở dạ,
Nhảy tõm xuống ngòi,
Sinh đẻ xong-xuôi,
Lại lên ở cạn.
Đến kỳ, đến hạn,
Buồng trứng nở ra,
Đông-đúc một nhà:
Thuần dân nòng nọc;
Trông không ra cóc,
Lại tựa cá trê;
Đến lúc bố về,
Nhìn con ngờ-ngợ,
Đem lòng nghi vợ,
Chạy thẳng lên quan,
Kiện gái lăng loàn,
Quyết xin ly-dị.
Huyện quan chăm-chỉ,
Võng đến tận nơi,
Xem xét một hồi,
Trở về phân xử:
“Gái kia ở cữ,
Đẻ rặt con người,
Sự rõ mười-mươi.
Hết đường chống cãi.
Anh chồng lý phải
Cho phép ly hôn;
Cứ việc ôn-tồn,
Kiếm người nối dõi.”
Chị chàng nghe nói,
Chẳng chút kêu ca,
Lủi-thủi về nhà,
Chăn đàn trẻ dại.
Ngày qua tháng lại,
Vật đổi sao dời,
Nòng-nọc đứt đuôi,
Nhảy lên mặt đất;
Rõ-ràng cóc thật,
Chẳng phải trê nào !
Cả xóm xôn-xao
Đồn đi khắp huyện.
Cóc cha nghe chuyện,
Tìm đến thử coi;
Nhận rõ con rồi
Lại xin lỗi vợ : 
“Trăm nghìn lạy mợ,
Thương kẻ ngu hèn,
Vì trót quá ghen,
Ở không trọn nghĩa.”
Lời nghe thấm thía,
Mụ cóc động tình,
Dùng hết bình sinh,
Mở mồm diễn thuyết : 
“Xưa em vẫn biết,
Quan xử bất công,
Nên ở trong lòng,
Tịnh không ngần-ngại;
Đợi sau phải trái,
Đã có trời xanh,
Soi-xét tấm thành,
Công minh phân xử.
Đó chàng coi thử
Luật của người ta,
Thấp kém bao xa
Luật ông Tạo-hóa.”

27. NGƯỜI SĂN PHƯỢNG HOÀNG

Ngày xưa có bác đi săn,
Leo lên nứi đá, định “ăn” phượng hoàng;
Đi vừa đến chỗ rừng hoang,
Tiếng chim sở ước kêu vang bên mình. 
Anh ta nhìn khắp chung quanh,
Thấy con vật quý đỗ nhành cây thông.
Đã toan lấy thế giương cung,
Thấy chim đang ngủ giấc nồng lại thôi.
Chim kia vội nói ra lời :
“Hỡi người tráng sĩ nghe tôi bảo này!
Xét trong tất cả đời nay,
Khó lòng gặp được một tay như chàng.
Thật là can đảm giỏi-gian,
Mới không thèm bắn phượng hoàng ngủ quên.
Chẳng qua cùng bạn người tiên,
Hai ta túc trái tiền duyên tự trời.
Nhưng chàng còn phải đi chơi,
Đi cho khắp cả mọi nơi hoàn cầu.
Mười lăm năm nữa về sau,
Hai ta sẽ lại gặp nhau chốn này.
Trong khi dạo bước đó đây,
Chắc gì chàng biết dở hay tỏ tường.
Này là chiếc lá cành dương,
Chàng nên giữ lấy đi đường mà coi.
Ấy là cái kính soi đời,
Trông qua sẽ biết ai người thực hư.”
Chàng kia được phép cáo từ,
Lui về dưới núi, ngao du năm hồ…
Một đêm chàng gặp hai cô,
Mỗi cô một lối điểm tô khác người.
Chàng liền lấy lá ra soi,
Thấy hai con quái hại đời người ta:
Một con là quỷ dạ-xoa,
Còn con nho-nhỏ là ma-cà-rồng …
Hôm sau, chàng gặp một ông,
Bụng bằng cái trống, rê không nổi mình;
Hoá ra con mọt hiện hình,
Bấy lâu vẫn gậm cột đình của dân.
Chàng ta vào quán nghỉ chân,
Nhác trông một gã áo quần bảnh-bao,
Vẫn đi sui dục đồng bào,
Theo nhau kiện tụng cho hao tiền tài .
Chàng bèn lấy kính xem ai,
Thấy con hồ lớn mõm dài đẫy gang.
Chàng đang nghĩ-ngợi mơ màng,
Sau lưng bỗng thấy một chàng tuổi xanh,
Mặt to, mày rậm, mắt nhanh,
Nhìn ra thì chính là anh dê già.
Chàng đi một quãng đường xa,
Gặp người khoe sách có và bốn kho *18
Nhìn qua chiếc lá tiên cho,
Thấy con người ấy là bò trắng răng. *19
Giận đời chẳng xiết nói năng,
Bên mình lại thấy lão tăng qua đường.
Tiều đồng quẩy níp kim-cương,
Nhìn ra cho kỹ là phường hổ mang.
Chàng đi bước một lang-thang,
Không dè đến xóm bình khang bao giờ.
Gặp hai bà lão còn “tơ”,
Tìm chồng chẳng thấy đang ngơ-ngẩn sầu.
Lá dương soi mãi hồi lâu:
Một đôi sư tử đua nhau thét gào.
Chàng qua một chỗ xôn-xao,
Thấy người diễn thuyết đứng cao lưng trời,
Bao hoa những chuyện “trời ơi”
Lá dương nhìn thấy là nòi khướu đen.
Bên mình lại thấy người chen,
Đám đông chật ních cũng len chân vào,
Để cho rơi mất hầu bao,
Nhìn ra thì thấy lông mao khắp mình.
Ấy là một chú cừu xinh,
Vì ngu-ngốc quá, người khinh kẻ cười.
Lân-la lại gặp một người,
Cho vay nặng lãi đến mười lăm phân.
Soi qua mảnh kính của thần,
Người ki a bỗng thấy hiện thân đỉa sù.
Sau cùng thấy một thằng cu,
Nằm trong lòng mẹ nghe ru “hỡi hời” !
Ra đời mới biết bú thôi,
Soi gương còn thấy là người thế gian.
Chàng ta ngẫm-nghĩ bàng-hoàng,
Chạnh lòng sực nhớ phượng hoàng trên non.
Toan lên tính cuộc vuông tròn,
Giật mình thành giấc mộng con ở đời.
Chàng ta tỉnh dậy mỉm cười,
Ngẫm lời tiên dạy, biết lời chẳng ngoa;
Rằng trong mỗi một người ta,
Cóc con vật vẫn hiện ra hàng ngày.

28. NGỰA VÀ KIẾN

Ngựa ô bước một trên đàng,
Chốc lưng quẩy một gói hàng khá to,
Vừa đi vừa thở phì-phò,
Liếc trông đàn kiến đang bò dưới chân.
Hỏi rằng : “Bớ lũ tiểu nhân !
Chúng bay đàn-đúm nhau khuân vác gì?
Mà như chẳng vất-vả chi,
Hay là thần thánh phù trì chúng bay?”
Kiến rằng : “Nói để người hay,
Chúng tôi tha đám trứng này như chơi;
Là vì con của chúng tôi,
Tuy rằng nặng nhọc mà coi nhẹ nhàng.
Còn như người ngựa tải hàng,
Hàng thiên hạ tải nên càng nặng thêm.
Việc mình coi nhẹ như tên,
Việc người như núi Tản-viên đè mình.”

29. TRE VÀ TRÚC

Nhân một bữa tre than cùng trúc:
“Cơ mầu này có lúc hết tre:
Người ta chẳng biết kiêng dè,
Làm nhà, làm cửa, đóng bè, cũng tôi.
Nào đan rổ, đan thời , đan sọt, 
Nào làm sào, làm cót, làm thang,
Lại còn đan thúng, đan sàng …
Đẵn nhiều đến nỗi tan-hoang cả vườn”
Trúc nghe nói cảm thương gạt lệ,
Nhủ tre rằng : “Nghĩ thế mà chi!
Cuộc đời thay đổi luân ly,
Tre già măng mọc, lo gì mai sau!”

30. HỒNG VÀ BÀNG

Trong vườn, về phía góc tây,
Có cây bàng lớn với cây bích-hồng.
Hồng thì xinh-xắn dễ trông,
Bàng thì che mát một vùng chung quanh.
Hồng rằng : “Nhác thấy quan anh,
“Tủi thân non nớt lá cành nhỏ-nhen.”
Bàng rằng : “Em dẫu đơn hèn,
Bông hoa hồng thắm một phen ra đời,
Hương bay ngào ngạt mọi nơi,
Vườn này thêm vẻ tốt tươi cũng vì…”
Người đời lấy đấy mà suy,
Bé thì việc nhỏ, lớn thì việc to.

31. MÁY BAY VÀ ĐÀN NHẠN

Phi cơ cưỡi gió đè mây,
Nhác trông đàn nhạn đua bay nực cười :
“Chúng bay phỏng được mấy hơi,
Cũng bay cũng lượn để đời cười cho !”
Nhạn rằng : “Anh cậy anh to,
Tự anh làm được nên trò gì không?
Chẳng qua nhờ sức phi công,
Thả ra, xuống bể xuống sông đi đời.
Ta tuy hèn mọn thế thôi,
Đă từng đi khắp mọi nơi xa gần.
Tự mình thân lập lấy thân,
Làm ăn bay nhảy rộng chân hơn người.”
Mấy dòng nhắn nhủ, ai ơi !
Bước đường đã phải cậy người dắt đi,
Xin đừng lên mặt nữa chi!

32. LỬA VÀ GIÓ

Lửa vừa mới bén lên,
Gió đâu đến đứng bên,
Phồng mồm toan thổi tắt,
Lửa bèn giở khoé vặt
“Tôi non-nớt nhường này,
Nỡ nào bác quá tay!
Xin hãy đi nơi khác,
Lát nữa, tôi tiếp bác.”
Gió nghe hót gật đầu,
Đứng lặng một hồi lâu.
Được dịp lửa hăng hái,
Từ phên leo lên mái.
Thấy mình đã “khoẻ quân”
Lửa thách gió lại gần.
Gió đùng đùng nổi giận,
Lấy gân mồm thổi rấn,
Nhưng càng thổi bao nhiêu,
Lửa càng bốc như diều…
Cửa nhà quanh vùng ấy,
Đều ra gio cả dãy.
Cái hại mới nhú đầu,
Muốn trừ có khó đâu !
Nhưng nếu coi là bỡn,
Để hại ngày một lớn,
Muốn trừ chỉ thêm lo,
Như cháy gặp gió to.

33. THỊT VÀ XƯƠNG

Bộ xương nhiếc bắp thịt: 
“Nếu chẳng có ta đây,
Thì anh rơi rụng xuống,
Như một đống bùn lầy.
Còn đâu là mặt mũi!
Còn đâu là chân tay!
Còn đâu là vẻ đẹp!
Còn đâu là nết hay!"
Bắp thịt ung dung đáp:
“Nếu anh chẳng đỡ-đần,
Tôi đành thân vô dụng;
Đâu có mặt cõi trần!
Nhưng nếu tôi đây chẳng
Gom-góp một đôi phần;
Thì trơ xương với xẩu,
Anh cũng bất thành nhân”

34. MÈO CÁI GIÀ ĐEO CHUỖI TRÀNG HẠT 

Chuột con đứng thập thò cửa tổ.
Gọi mẹ ra xem mụ vãi mèo.
Vừa mừng vừa gọi vừa reo : 
“Mẹ ơi! Bà cụ Mãn đeo chuỗi tràng.
Miệng lẩm-bẩm cụ đang niệm Phật.
Bước khoan thai rõ thật hiền lành.
Từ rầy cụ đã tu hành.
Từ bi cụ chẳng sát sinh nữa rồi.
Gớm chuỗi hạt quý ơi là quý.
Bằng minh châu hay mỹ ngọc gì?
Con ra “Bạch cụ” ngòai kia.
Con xem chuỗi hạt rồi đi kiếm mồi.
Chuột mẹ vội rằng : “Thôi con chớ
Chớ vội tin mà lỡ đấy con”
Chuột con tính trẻ bồn chồn,
Không nghe lời mẹ chạy bon khắp nhà.
Mèo hấp tấp chồm ra vồ hụt,
Phúc bảy đời chú chuột tí hon.
Nguyên vì mèo nọ chui luồn,
Chui phải chuỗi hạ quàng luôn vào đầu.
Chớ mèo có tu đâu chăng tá,
Mà chuột con vội-vã tin ngay.
Các em nhỏ nhớ lời này:
“Tin đạo đức giả có ngày khốn thân.”

35. CON MỐI VÀ CON KIẾN  

Con Mối trong nhà trông ra,
Thấy một đàn kiến đương tha cái mồi.
Mối gọi bảo : “Kiến ơi các chú,
Tội tình gì lao khổ lắm thay!
Làm ăn tìm kiếm suốt ngày,
Mà sao thân thể vẫn gầy thế kia.
Chúng ta đây chẳng hề khó nhọc,
Mà ồ ề béo trục, béo tròn.
Ở ăn ghế chéo bàn tròn
Nhà cao cửa rộng, tủ hòm thiếu đâu”.
Kiến rằng : “Trên địa cầu muôn loại;
Hễ có làm thời mới có ăn
Sinh tồn là cuộc khó khăn
Vì đàn vì tổ nên thân gầy gò
Các anh chẳng vun thu xứ sở,
Cứ đục vào chỗ ở mà xơi,
Đục cho rỗng hết mọi nơi,
Nhà kia đổ xuống đi đời các anh.”

36. CON KÉT

Két thường học nói cả ngày
Gần người thô tục két hay chửi thề
Được người đạo đức đem về,
Két luôn vâng dạ mọi bề đáng khen.
Rõ là gần mực thì đen
Gần người bạn tốt ta bèn tốt theo.

37. CON ẾCH

Giếng hang quanh-quẩn ngu đần
Ếch chưa biết được xa gần mấy nơi
Không cùng tiến bộ với đời
Eách ngồi đáy giếng thấy trời bằng vung
Hay đâu đất rộng vô cùng,
Mênh-mông biển học vẫy vùng mới nên

38. LẤY THÚNG ÚP VOI

Trùm voi bằng thúng được đâu
Voi to thúng nhỏ hở đầu lòi đuôi
Chớ hòng lấy thúng úp voi,
Xấu mà che đậy cũng lòi xấu ra.
Chi bằng em cứ thật-thà
Lỗi thì nhận lỗi rồi ta sửa mình.

39. CHIM CHÍCH VỚI BỒ NÔNG  

Lũy tre có chú bồ nông,
Rủi khi rét lạnh nghỉ không kiếm mồi. 
Chích đâu lại đậu gần nơi,
Thoạt tiên chích đã rụng-rời chân tay.
Sau thấy nông đứng ngây như tượng
Chích hoàn hồn bay lượn đến gần.
Dần-dà ra ý làm thân,
Mổ đuôi, kéo cánh, rỉa chân, cưỡi đầu.
Nông thấy vậy giận đâu đem lại,
Mổ chích ta một cái đáng đời.
Chích đành lăn khóc vang trời :
“Lạy ông tha thứ nay tôi xin chừa!”

0 nhận xét:

Đăng nhận xét