Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

Kiều thăm mộ Đạm Tiên - (0001-0244) - Nguyễn Du


Trăm năm trong cõi người ta, 
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. 
Trải qua một cuộc bể dâu, 
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 
Lạ gì bỉ sắc tư phong, 
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. 
Cảo thơm lần giở trước đèn, 
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh. 
Rằng: Năm Gia-tĩnh triều Minh, 
Bốn phương phẳng lặng hai kinh chữ vàng. 
Có nhà viên ngoại họ Vương, 
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung. 
Một trai con thứ rốt lòng, 
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia. 
Đầu lòng hai ả tố nga, 
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. 
Mai cốt cách tuyết tinh thần, 
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. 
Vân xem trang trọng khác vời, 
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. 
Hoa cười ngọc thốt đoan trang, 
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. 
Kiều càng sắc sảo mặn mà, 
So bề tài sắc lại là phần hơn. 
Làn thu thủy nét xuân sơn, 
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. 
Một hai nghiêng nước nghiêng thành, 
Sắc đành đòi một tài đành họa hai. 
Thông minh vốn sẵn tính trời, 
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. 
Cung thương làu bậc ngũ âm, 
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. 
Khúc nhà tay lựa nên xoang, 
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân. 
Phong lưu rất mực hồng quần, 
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. 
£m đềm trướng rủ màn che, 
Tường đông ong bướm đi về mặc ai. 
Ngày xuân con én đưa thoi, 
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. 
Cỏ non xanh tận chân trời, 
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. 
Thanh minh trong tiết tháng ba, 
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh. 
Gần xa nô nức yến anh, 
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. 
Dập dìu tài tử giai nhân, 
Ngựa xe như nước áo quần như nêm. 
Ngổn ngang gò đống kéo lên, 
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. 
Tà tà bóng ngả về tây, 
Chị em thơ thẩn dan tay ra về. 
Bước dần theo ngọn tiểu khê, 
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. 
Nao nao dòng nước uốn quanh, 
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. 
Sè sè nấm đất bên đường, 
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. 
Rằng: Sao trong tiết Thanh minh, 
Mà đây hương khói vắng tanh thế này? 
Vương Quan mới dẫn gần xa: 
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. 
Nổi danh tài sắc một thì, 
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. 
Kiếp hồng nhan có mong manh, 
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. 
Có người khách ở viễn phương, 
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi. 
Thuyền tình vừa ghé tới nơi, 
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ! 
Buồng không lặng ngắt như tờ, 
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. 
Khóc than khôn xiết sự tình, 
Khéo vô duyên bấy là mình với ta! 
Đã không duyên trước chăng mà, 
Thì chi chút ước gọi là duyên sau. 
Sắm sanh nếp tử xe châu, 
Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa. 
Trải bao thỏ lặn ác tà, 
ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm! 
Lòng đâu sẵn mối thương tâm, 
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa: 
Đau đớn thay phận đàn bà! 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. 
Phũ phàng chi bấy hóa công! 
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha. 
Sống làm vợ khắp người ta, 
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng! 
Nào người phượng chạ loan chung, 
Nào người tiếc lục tham hồng là ai? 
Đã không kẻ đoái người hoài, 
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. 
Gọi là gặp gỡ giữa đường, 
Họa là người dưới suối vàng biết cho. 
Lầm dầm khấn vái nhỏ to, 
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra. 
Một vùng cỏ áy bóng tà, 
Gió hiu hiu thổi một và bông lau. 
Rút trâm sẵn giắt mái đầu, 
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần. 
Lại càng mê mẩn tâm thần, 
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra. 
Lại càng ủ dột nét hoa, 
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài. 
Vân rằng: Chị cũng nực cười, 
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa! 
Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa, 
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu. 
Nỗi niềm tưởng đến mà đau, 
Thấy người nằm đó biết sau thế nào? 
Quan rằng: Chị nói hay sao, 
Một lời là một vận vào khó nghe! 
ở đây âm khí nặng nề, 
Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa. 
Kiều rằng: Những đấng tài hoa, 
Thác là thể phách còn là tinh anh, 
Dễ hay tình lại gặp tình, 
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ! 
Một lời nói chửa kịp thưa, 
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay. 
Aào ào đổ lộc rung cây, 
¥ở trong dường có hương bay ít nhiều. 
Đè chừng ngọn gió lần theo, 
Dấu giày từng bước in rêu rành rành. 
Mặt nhìn ai nấy đều kinh, 
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa. 
Hữu tình ta lại gặp ta, 
Chớ nề u hiển mới là chị em. 
Đã lòng hiển hiện cho xem, 
Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời. 
Lòng thơ lai láng bồi hồi, 
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. 
Dùng dằng nửa ở nửa về, 
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần. 
Trông chừng thấy một văn nhân 
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. 
Đề huề lưng túi gió trăng, 
Sau chân theo một vài thằng con con. 
Tuyết in sắc ngựa câu giòn, 
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời, 
Nẻo xa mới tỏ mặt người, 
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình. 
Hài văn lần bước dặm xanh, 
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. 
Chàng Vương quen mặt ra chào, 
Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa. 
Nguyên người quanh quất đâu xa, 
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. 
Nền phú hậu bậc tài danh, 
Văn chương nết đất thông minh tính trời. 
Phong tư tài mạo tót vời, 
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa. 
Chung quanh vẫn đất nước nhà, 
Với Vương Quan trước vốn là đồng thân. 
Trộm nghe thơm nức hương lân, 
Một nền Đồng-tước khóa xuân hai Kiều. 
Nước non cách mấy buồng thêu, 
Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng. 
May thay giải cấu tương phùng, 
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa. 
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, 
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. 
Người quốc sắc kẻ thiên tài, 
Tình trong như đã mặt ngoài còn e. 
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê. 
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn. 
Bóng tà như giục cơn buồn, 
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo. 
Dưới cầu nước chảy trong veo, 
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. 
Kiều từ trở gót trướng hoa, 
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không. 
Gương nga chênh chếch dòm song, 
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân. 
Hải đường lả ngọn đông lân, 
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà. 
Một mình lặng ngắm bóng nga, 
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời: 
Người mà đến thế thì thôi, 
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! 
Người đâu gặp gỡ làm chi, 
Trăm năm biết có duyên gì hay không? 
Ngổn ngang trăm mối bên lòng, 
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. 
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành, 
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu. 
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, 
Có chiều phong vận có chiều thanh tân, 
Sương in mặt tuyết pha thân, 
Sen vàng lãng đãng như gần như xa. 
Rước mừng đón hỏi dò la: 
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây? 
Thưa rằng: Thanh khí xưa nay, 
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên? 
Hàn gia ở mé tây thiên, 
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu. 
Mấy lòng hạ cố đến nhau, 
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. 
Vâng trình hội chủ xem tường, 
Mà sao trong sổ đoạn trường có tên. 
¢u đành quả kiếp nhân duyên, 
Cũng người một hội một thuyền đâu xa! 
Này mười bài mới mới ra, 
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời. 
Kiều vâng lĩnh ý đề bài, 
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. 
Xem thơ nấc nở khen thầm: 
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường! 
Ví đem vào tập đoạn trường, 
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai! 
Thềm hoa khách đã trở hài, 
Nàng còn cầm lại một hai tự tình. 
Gió đâu sịch bức mành mành, 
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao. 
Trông theo nào thấy đâu nào, 
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây. 
Một mình lưỡng lự canh chầy, 
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh! 
Hoa trôi bèo giạt đã đành, 
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi! 
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, 
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. 
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan, 
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn có gì: 
Cớ sao trằn trọc canh khuya, 
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa? 
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ, 
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền. 
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên, 
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao. 
Đoạn trường là số thế nào, 
Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia. 
Cứ trong mộng triệu mà suy, 
Thân con thôi có ra gì mai sau! 
Dạy rằng: Mộng huyễn chắc đâu, 
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao! 
Vâng lời khuyên giải thấp cao, 
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương, 
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng, 
Nách tường bông liễu bay ngang trước mành. 
Hiên tà gác bóng chênh chênh, 
Nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình. 
Cho hay là giống hữu tình, 
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong!