Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra.(50)
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
Xa xem mặt mũi đen xì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
Nhớ câu bình thuỷ tương phùng,(51)
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi:
"Chẳng hay danh tánh là chi,
Một mình mang gói ra đi việc gì".
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà
Vân Tiên biết lẽ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao,(52)
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây.
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
Kìa nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chưn một hồi".
Cùng nhau bày họ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
Hớn Minh đi trước tựu trường,
Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.
Dám xin cha mẹ an tâm,
Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi"(53)
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lại lo non nước xa xôi nghàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:
"Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang,
Con người là Võ Thể Loan.
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.(54)
Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia, (55)
Con đi qua đó trao qua thơ này.
Con dầu bước đặng thang mây,
Dưới chưn đã sẵn một dây tơ hồng".
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân.
a đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân sang hè.
Lại xem dặm liễu đường hoè,
Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim hót dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm cảnh coi người,
Cảnh xinh như vẽ người tươi như dồi.(56)
Hàn Giang phút đã tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ.
Võ công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.(57)
Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen học Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
Những e kẻ Tấn người Tần,(58)
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.(59)
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng(60)
Công rằng: "Ngãi tế mới sang,(61)
Muốn lo việc nước phải toan việc nhà".
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng tiểu khoa lo gì".(62)
Công rằng: "Con dốc xuống thi,
Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
Gần đây có một họ Vương,
Tên là Trử Trực văn chương tót đời.(63)
Cha đà sai trẻ qua mời,
Rằng con cùng gã thử chơi một bài.
Thấp cao cao thấp biết tài,
Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu".(64)
Xảy đâu Trử Trực tới hầu,
Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con,
Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu bình thuỷ hữu duyên làm đề".(65)
Song song hai gã giao kề,(66)
Lục Vương hai họ đua nghề một khi
Cho hay kì lại gặp kì,(67)
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.(68)
Công rằng : "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
Thiệt trang lương đống đã đành,(69)
Khá khen hai họ tài lành hoà hai".
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầy?(70)
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực này xin nhượng Tiên này làm anh.
Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau".(71)
Phút xem trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Võ công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chưn trời,
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình.(72)
Gọi là chút nghĩa tống tình.(73)
Phòng sao cho khỏi bất bình cùng nhau".
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu,
Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,
Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung.(74)
Thưa rằng: "Quân tử phó công,(75)
Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
Tấm lòng thương gió nhớ mưa,(76)
Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời.
Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng.(77)
Quản bao chút phận má hồng.
Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương,(78)
Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng.(79)
Xin đừng tham đó bỏ đăng,(80)
Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
Tiên rằng : "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.
May duyên rủi nợ dễ phô,(81)
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần"(82)
Thể Loan vội vã lui chân,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Tràng An.
Xa xa vừa mấy dặm đàng,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn cùng đi.(83)
Trải qua thuỷ tú sơn kì,(84)
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay.(85)
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài, (86)
Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua. (87)
Cùng nhau bàn bạc gần xa
Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau.
Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây". (88)
Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau" (89)
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. (90)
Chênh vênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi. (91)
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:".
Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề". (92)
Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu, (93)
Trà ve điểm tuyết, rượu bầu cúc hương. (94)
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi. (96)
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ, (97)
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên". (98)
Trực rằng : "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?" (99)
Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" (100)
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, (101)
Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, (102)
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U Lệ đa đoan, (103)
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời ngũ bá phân vân, (104)
Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng, (105)
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông. (106)
Thương thầy Nhan Tử dở dang. (107)
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phui pha. (108)
Thương thầy Đồng tử cao xa, (109)
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, (110)
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may, (111)
Sớm dưng lời biểu ối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra, (112)
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".
Trực rằng: "Chùa rách Phật vàng, (113)
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. (114)
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu Thuấn thuở xưa, (115)
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. (116)
Di Tề chẳng khứng giúp châu, (117)
Một mình một núi ai hầu chi ai.
Ông Y ông Phó ôm tài, (118)
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.
Thái Công xưa một cần câu, (119)
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, (120)
Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu. (121)
Trần Đoàn chẳng chút lo âu, (122)
Gió trăng một túi công hầu chiêm bao,(123)
Người nay có khác xưa nào,
Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,
Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đàn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt ngẫm âu nực cười".
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ lại bảy người Trước Lâm.(124)
Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.
Rừng nhu biển thánh minh mông,(125)
Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".
Quán rằng: "Đó biết ý đây,
Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng người tráp đầy đường,
Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ la.
Vân Tiên vừa bước chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ,(126)
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa,
Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi há nỡ lấp đường công danh.
Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm đời!
Gắng vào trong quán yên nơi,
Tớ thầy than thở liệu lời quy lai.(127)
Tiểu đồng than vắn than dài:
"Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay".
Trực rằng: "Đã đến nỗi này,
Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền.
Sớm hôm thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay,
Bây giờ kíp rước thợ may,
Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.
Dây rơm mũ bạc áo thùng.
Cứ theo trong sách Văn Công mà làm".(128)
Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
Trong mình không cánh không vi,
Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng.
Vào trong phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.
Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vật đổi còn gì mà trông.
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao.(129)
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình".(130)
Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương".(131)
Ai ai trông thấy cũng thương,
Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.
Dẫu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạn tác vừa ra,(132)
Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương".
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm đường xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân.
Đương khi quá đói thuốc thần cũng no".
Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần".(133)
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây.(134)
Non xanh nước biếc vui vầy,
Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".
Nói rồi quày quả ra đi,(135)
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn:
"Nên, hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành.(136)
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.
Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bịnh nửa chừng,
Trong non khó liệu giừa rừng khôn toan".
Tiên rằng: "Khô héo lá gan,
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu,(137)
Chưa đi đã mỏi mình đau như dần.
Có thân phải khổ vì thân,
Thân ơi thân biết mấy lần chẳng may!"
Đồng rằng: "Trời đất có hay,
Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
Một mình nhắm trước nhắm sau,
Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn
Dắt nhau khi ấy hỏi phăn,(138)
Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.
Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.(139)
Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
May mà bịnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".
Ngang rằng: "Ta ở chốn này,
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem Y học làm đầu,
Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y.(140)
Gẫm trong Ngân hải tinh vi,(141)
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang.(142)
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang.(143)
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân.(144)
Vị chi sẵn đặt quân thần,(145)
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan. (146)
Mạch thời đọc phú Lư san,(147)
Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sanh
Lục quân tứ vật thanh danh.(148)
Thập toàn Bát vị sẵn dành nội thương.(149)
Lại thông Bát trận tân phương.(150)
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài.(151)
|Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi.
Ngang rằng: "Lục bộ đều suy,(152)
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng.(153)
Cứ trong kinh lạc mà thông,(154)
Mạng môn tướng hoả đã xông lên đầu.(155)
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
Muốn cho giáng hoả phải đầu tư âm.(156)
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm,(157)
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.(158)
Ngoài thời cho điểm vạn linh,(159)
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.(160)
Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phước cho chàng,
Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai".(161)
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".
Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm.
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.(162)
Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?(163)
Tiểu đồng, người khá qua cầu,(164)
Cùng ông thầy bói ở đầu tây viên".
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy người coi đã đầy.
Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào.(165)
Huỳnh kim Dã hạc sách cao,(166)
Lục Nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay.(167)
Can, chi đều ở trong tay,(168)
Đã thông trời đất lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành".
Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi.(169)
Ứng vào rùa với cỏ thi, (170)
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
Đồng rằng: "Người ở đông phương,
Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây".
Bói rằng: "Đinh sửu năm nay,
Hèn chi giáp tý ngày rày chẳng an.
Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta".
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Một giao hai sách lại ba hào trùng.(171)
Trang thành là quẻ lục xung,(172)
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hoá ra làm quẻ du hồn, (173)
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan.(174)
Cứ trong quẻ ấy mà bàn;
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình
Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho quẻ ấy đặng yên,
Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.
Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay dậy tiếng đồn xa,
Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn".
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay.
Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
Pháp rằng: "Ân đã cao tay,(175)
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì.(176)
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.(177)
Pháp hay sái đậu thành binh,(178)
Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương.
Pháp hay đạo hoả phó thang, (179)
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.(180)
Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bịnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".
Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
Pháp rằng: "Có khó chi sao,
Người nằm ta chữa rồi trao phù về".
Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề,(181)
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".
Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng.(182)
Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên,(183)
Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây.(184)
Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây,(185)
Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi.(186)
Thỉnh ông Phật tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
Lại mời công chúa Ngũ Long, (187)
Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh.(188)
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân.(189)
Thỉnh trong khắp hết quỷ thần,
Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
Cho người ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai".
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang:
"Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
Thời người khá lấy mà trao cho thầy".
Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".
Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng:(190)
"ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".
Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
Những lo chạy hết một trăm,
Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật còn,
Bơ vơ đất khách thon von thế này.(191)
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau".(192)
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn.(193)
Đương khi mưa gió luông tuồng,(194)
Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao.
Dầu cho tài trí bực nào,
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: "Đi đã ngẩn ngơ,
Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn".
Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi".
Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.
Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đã hai rằm,(195)
Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây?"
Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?"
Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao,
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.
Một mình về trước viếng thân,
Hai người trở việc còn lần đi sau.
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Từ đây tới quận Đông Thành,
Trong mình có bịnh, bộ hành xao xong?
Lần hồi đến chốn giang trung,
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".
Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này".
Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây,
Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
Phòng khi sông biển phong ba bất kì".
Tiểu đồng vội vã ra đi
Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm dao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".
Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình.(196)
Bấy lâu đất khách lưu linh,
Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau,
Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình".
Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi".
Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
"Phận mình đã mắc tai nàn,
Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
Xiết bao những nỗi dật dờ,
Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùm".
Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tùng ngủ quên.
Sơn quân ghé lại một bên,(197)
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.(198)
Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ tìm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.
Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
"Bữa qua có thấy người tang chăng là?"(199)
Quán rằng: "Thôi đã ra ma,
Khi mai làng xóm người đà đi chôn".
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".
Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy,
Chẳng hay người thác mả này là ai?"
Người rằng: "Một gã con trai,
ở đâu không biết lạc loài tới đây.
Chưn tay mặt mũi tốt thay,
Đau chi nên nỗi nước này khá thương".
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi,
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quảy đơm.(200)
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.
Thứ này đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.
Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.(201)
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.(202)
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.(203)
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.(204)
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ,(205)
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: "Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui".(206)
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,
Thân tôi như thể trái mùi trên cây.(207)
May đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,(208)
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài lưới mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm,(209)
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời.
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang".
Tiên rằng: "Vậy cũng một làng,
Võ Công người ở gần đàng đây chăng?"
Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,
Khỏi ba khúc vịnh thì lần đến nơi".
Tiên rằng: "Xưa đã gá lời,
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạo tào khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
Trăm năm muốn trọn ân tình,
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử ơn sâu,(210)
Xin đem tới đó trước sau cho tròn".
Ngư rằng: "Làm đạo rể con,
Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim
Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ kiểng lạ khôn tìm cây xưa.
E khi chậm bước tới trưa,
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
Mấy ai ở đặng hảo tâm,
Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi?
Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu?
Đã ba thứ tóc trên đầu,
Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".
Vân Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông chẳng đã, tách vời đưa sang.(211)
Dắt Tiên vào chốn hậu đàng,
Võ Công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
Chẳng qua sợ thế gian cười,
Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa,
Ngư ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn".
Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,
Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng.
Nhớ xưa trong núi Lư San,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên.(212)
Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,
Giúp người Hạng Võ qua miền Ô Giang.(213)
Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn".
Một lời gắng giúp keo sơn,
Ngư ông từ giã lui chưn xuống thuyền.
Võ Công không ngớt lòng phiền,
Ân tình, thế lợi khó tuyền đặng vay.
Dạy Tiên: "Người hãy ngồi đây,
Cho ta trở lại sau này liệu toan".
Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang,
Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?
Mặc con toan liệu làm sao,
Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".
Loan rằng: "Gót đỏ như son,
Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn.
Ai cho sen muống một bồn,
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê?(214)
Thà không chót chịu một bề,
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu!
Dốc lòng chờ đợi danh nhu,
Rể đâu có rể đui mù thế ni?
Đã nghe người nói hội này,
Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa.
Ta dầu muốn kết sui gia,
Họ Vương, họ Võ một nhà mới xinh".
Công rằng muốn trọn việc mình,
Phải toan một chước dứt tình mới xong.
Nghe rằng trong núi Thương Tòng,
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
Đông Thành ngàn dặm còn xa,
Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".
Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than.(215)
Võ Công ra trước dỗ chàng,
Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành.
Ra đi đương lúc tam canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa.(216)
Tiên rằng: "Các chú đưa ta,
Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.
Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".
Lắng nghe vẳng tiếng hai bên,
Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
Vân Tiên khi ấy hãi hùng,
Nghĩ ra mới biết Võ Công hại mình.
Nực cười con tạo trớ trinh,(217)
Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao.
Ngẫm mình tai nạn biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo.(218)
Trong hang sau trước quạnh hiu,
Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.
Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Đã đành xa cõi nhân gian,
Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi lò,
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng.(219)
Năm ngày chịu đói khát ròng,
Nhờ ba hoàn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Du thần xem thấy ai hoài,(220)
Xét trong mình gã có bài phù tiên.
Mới hay là Lục Vân Tiên.
Cùng nhau dìu dắt đều liền đêm ra.
Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.
Du thần trở lại sơn trung,
Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.
Lão tiều cơm gói sẵn sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới nơi đại lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.
Hay là yêu quái tà gian,
Rung cây nhát lão làm đàng hại nhân.
Lão tiều liền bước tới gần,
Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn.
Chi bằng lên tiếng hỏi han:
"Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"
Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau.
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:
"ít người trong tuyết đưa than,(221)
Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương".
Vân Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay:
"Ngửa trông lượng cả cao dầy,
Cứu trong một buổi ơn tày tái sinh.
Mai sau về tới Đông Thành,
Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".
Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,
Làm ơn mà lại trông người sao hay.
Già hay thương kẻ thảo ngay,
Này thôi để lão dắt ngay về nhà".
Tiên rằng: "Trong dạ xót xa,
Nay đà sáu bữa không hoà mùi chi.(222)
Lại thêm rũ liệt tứ chi,
Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".
Lão tiều vội ngửa áo tơi,
Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,
Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".
Khỏi rừng ra tới ngã ba,
May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.
Lão tiều lật đật bôn trình,(223)
Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi.
Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh,(224)
Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni?"
Tiên rằng: "Chẳng xiết nói chi,
Thân này nào có khác gì cây trôi.
Linh đinh gió dập sóng dồi,
Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
Minh rằng: "Đây khó hỏi han,
Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau."
Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu
Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
Hớn Minh quỳ gối lạy liền:
"Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành,
Này hai lượng bạc trong mình,
Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".
Tiều rằng: "Vốn lão tình không.
Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quí mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày".
Vân Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
Lão tiều trở lại lâm sơn,
Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây.(225)
Tiên rằng: "Đã gặp khoa này,
Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?"
Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi,
Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.
Anh thời về trước tỉnh thân.(226)
Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.
Đi vừa tới huyện Loan Minh,
Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.
Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì.(227)
Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
Mình làm nỡ để ai lo,
Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.
Án đày ra quận Sóc Phang,
Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây.
Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".
Vân Tiên nghe nói thảm thương,
Lại bày một khúc tai ương phận mình.
Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thượng cội xuân huyên,(228)
Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
Trông con như hạn trông dào,
Mình này trôi nổi phương nào biết đâu.
Vừng mây giăng bạc trên đầu,
Ba năm chưa trọn một câu sanh thành.(229)
Hữu tam bất hiếu đã đành.(230)
Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
Tưởng thôi như cắt ruột gan,
Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần".
Minh rằng: "Người ở trong trần,
Có khi phú quí có lần gian nan.
Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê.
Thôi thôi anh chớ vội về,
Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.
Bao giờ hết lúc tai nàn,
Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
Cam La sớm gặp cũng xinh,(231)
Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời.(232)
Nên, hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong".(233)
Vân Tiên khi ấy yên lòng,
Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.
Võ công làm việc trớ trinh,(234)
Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
Ngày ngày trang điểm phấn dồi,
Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử Trực vừa về,
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.
Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,
Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền xa chơi.(235)
Thương chàng phận bạc trong đời,
Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng".
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa,
Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.
Trời sao nỡ phụ tài lành,
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.
Cùng nhau chưa đặng vuông tròn.
Người đà sớm thác ta còn làm chi?
Trong đời mấy bực cố tri,
Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm".
Công rằng: "Ta cũng thương thầm,
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang.(236)
Thôi thôi khuyên chớ thở than,
Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
Tới đây thời ở lại đây,
Cùng con gái lão sum vầy thất gia.(237)
Phòng khi hôm sớm vào ra,
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên.
Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên,(238)
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì!
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?
Hay là học thói nước Tề,
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công?(239)
Hay là học thói Đường cung,(240)
Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?
Người nay nào phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm?(241)
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao?
Võ Công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể Loan trong cửa bước ra.
Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.
Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,(242)
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
Chẳng ưng thời cũng làm khuây,
Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng".
Trực rằng: "Ai Lữ Phụng Tiên,
Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi.(243)
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa.
Hổ hang vậy cũng người ta,
So loài cầm thú vậy mà khác chi?
Vân Tiên anh hỡi cố tri,
Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông Thành.
Võ Công hổ thẹn trong mình,
Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan(244)
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang,
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét