Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ kháng chiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ kháng chiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

Du Kích Đồng Nai - Huỳnh Văn Nghệ

Kính tặng anh Chín Quỳ - người chỉ huy du kích Đồng Nai.

Chiến khu Đ có từ thuở ấy 
Có một anh đồng chí
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi
Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai
Lập chiến khu nuôi chí lớn. 
Nước ngọt, dân thương, rừng rộng 
Tiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tề
Bạn với núi rừng, trái cam, măng le.
Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm:
Thuyền Hít-le chìm đắm. 
Biển Liên Xô sóng đỏ dâng trào 
Pháp mở cửa Đông Dương quỳ gối
Rước Nhật vào
Hơn hai triệu đồng bào chết đói...
Chi đội vũ trang mới tròn tiểu đội
Cơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên.
Phải chống ngụy, tề bố ráp ngày đêm
Suất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật.
Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thức
Mỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng:
Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng...
Bỗng một chiều sương 
Gió thu đang tơ vàng lá cám.
Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm. 
Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son. 
Lá cờ son 
Tay anh hé mờ
Lệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ. 
Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình. 
Đọc truyền đơn như đọc bức thư tình
Từng chữ một đánh vần đến thuộc
Chiến khu xanh đêm vui đỏ đuốc
Suối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều.
Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điều
Mua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh.
Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánh
Như tim vàng ngự giữa lòng son.
Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng Tám
Chiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng.
Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưng
Áo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa.
Những tròng mắt bừng bừng ánh lửa 
Gót chân chai giậm vỡ nhựa đường. 
Cờ đỏ sao vàng
Đã ngập trời Nam Bộ: 
Những đoàn người như thác đổ 
Tiếng hò reo đất lở nghiêng trời 
Bọn giặc Nhật rụng rời 
Quỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh 

Người du kích Đồng Nai gác tòa thị sảnh
Ngỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu.

Bắc Sơn 1954

Lịch Sử Quê Hương - Huỳnh Văn Nghệ

Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc 
Chán ghét vua quan áp bức. 
Họ đạp núi rừng vượt sóng bể khơi. 
Đi vào Nam làm lại cuộc đời 
Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc.

Có con sông cũng từ hướng Bắc 
Vượt núi rừng ghềnh thác
Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao.
Người gặp sông
Ngụm nước mát ngọt ngào
Thề với trăng sao cùng nhau kết bạn 
Chung nhịp bước về miền Nam nắng sáng
Nơi trời xanh nhởn nhơ đàn cò trắng
Nơi đồng xanh ngơ ngẩn đám nai vàng.
Bờ hoang vu hạ trại một chiều sương
Lột da nai
Lửa cơm chiều bốc khói 
Họ đặt tên Đồng Nai cho trời đất mới. 
Bao ngày gian khổ 
Hằng trăm năm tranh đấu với núi rừng
Mồ hôi, nước mắt, tay sưng 
Mới có được góc trời Nam tươi mát 
Đồng lúa thơm, vườn bưởi đường, cam mật
Tiếng trẻ thơ cười hát sân trường,
Hồi chuông chùa êm gõ sườn non
Mái tranh vàng khói cơm chiều quyến luyến.
Thuyền dưới bến dập dìu buồm cánh én.
Xe trên đường lẻng kẻng nhạc ngựa vang.
Ôi! Tân Uyên quê mẹ đẹp muôn vàn.

Bắc Sơn 1954

Một Trận Chống Càn - Huỳnh Văn Nghệ

Rùng rợn tiếng loa vang 
Giữa rừng khuya giá lạnh
“Chống càn... chống càn
Đồng bào chuẩn bị chống càn...”
Máy nói trung đoàn tiếp theo reo lệnh: 
“Chôn ngay máy tiện
Tắt hết lửa lò
Tháo giấu máy in
Gánh dời kho gạo
Sơ tán hết trẻ thơ, già yếu 
Ngụy trang cả hầm lúa, hang heo...” 
Máy nói cứ reo... 
Trinh sát chạy chân không bén đất.
Tin tức trở về từng phút, từng giây. 
“Tây đã vào Đất Cuốc
Xe tăng gầm phía Bào Đế, Tân Dân
Ở Lạc An, chúng đang đốt nhà dân
Nhổ từng gốc khoai
Cướp từng tô thóc, 
Phía Cây Đào, rền tiếng súng cà nông
Đất Tân Tịch rỗ hố bom, đại bác”.
Rách nát thân dừa 
Xác xơ ngọn chuối 
Hai vợ chồng nhìn nhau không nói 
Nhặt từng mảnh xương con 
Gói lại
Đem chôn 
Lệ trào tuôn 
Không tắt lửa căm hờn
Trong bốn mắt.
Ôi chiến khu Tân Uyên! 
Lại cháy nữa mái tranh, rẫy lúa,
Lại chảy nữa máu đồng bào đau khổ 
Ngồi đứng không yên
Tiểu đoàn chủ lực từ Long Nguyên
Mừng được lệnh đạp đêm về căn cứ.
Cành lá ướt, sương vuốt ve mũ, áo
Đồng bào gánh bánh, nước đón mừng...
Trời vừa rạng đông 
Sông Đồng Nai bỗng cười tung sóng trắng
Thủy lôi ta hạ tàu giặc ở Xóm Đèn 
Tây trắng cố dìm Tây đen
Chen nhau bơi, chui đầu vào lưới đạn. 
Địa lôi ta nổ trên đường Hố Cạn 
Làm gục đầu mấy chiếc xe tăng 
Nát thây bọn ngụy thổ, Việt gian. 
Còn hai chân vướng tòn teng trên cành.
Băng hầm chông, lựu đạn.
Dân quân hạ “ông lớn” khắp nơi.
Bọn nhảy dù chân chưa bén lúa tươi
Bị cọc bén chĩa ngay lòi ruột
Con “đầm già” bị một chùm đạn mút
Lảo đảo bay về khói vuốt theo đuôi.
“Giàn nhạc” ca nông đã câm họng lâu rồi
Chiếc “cán gáo” đã chuồn mất hút
Tiếng kèn của tiểu đoàn chủ lực 
Đã vang rền phía Lò Than 
Đồng bào reo mừng 
Mẹ vội hái củi khô
Đun thêm nồi bánh tét, 
Vừa vái Trời, với Phật. 
“Phù hộ trung đoàn, giết giặc lập công!”.
Nồi bánh tét chưa sôi
Tin giặc đã chạy rồi
Bỏ lại cả lon quan, xác lính.
Đêm liên hoan mẹ hò lanh lảnh:
“Khu Đ đi dễ khó về
Lính đi bỏ mạng, quan về mất lon”. 

Chiến Khu Đ - 1952

Rừng Đẹp - Huỳnh Văn Nghệ

Rừng đẹp như một bài thơ cổ
Cành cao vượn hú
Ríu rít tổ chim. 
Bờ suối đỏ hoa sim
Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa.
Đêm trăng một người một ngựa 
Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi. 
Hội nghị giữa trời
Chim, lá cũng góp lời góp ý.
Mắc võng cây này qua cây ấy
Củi khô lửa cháy ấm đêm đông.
Tắm, ăn nước suối một giòng.
Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới.
Củ mì luộc chia đôi chấm muối
Mặn bùi tình nghĩa anh em.
Cửa mở suốt đêm
Doanh trại, nhà dân, cơ quan chính phủ
Chung một mái tranh
Cởi mở tâm tình 
Rách lành manh áo che thân
Không phân biệt nhân dân, cán bộ.
Rồi những chiều nào đó
Kháng chiến thành công 
Giữa cảnh ngựa xe thành phố
Gặp lại bạn bè hay với con, với vợ
Ngồi kể lại chuyện rừng xanh núi đỏ
Tình chiến khu còn đậm mãi ấm chè thơm.

Chiến khu Đ - 1951

Giữ Bí Mật - Huỳnh Văn Nghệ

Bắt được anh du kích
Thằng Tây xồm vểnh râu
Tuốt dao găm hăm dọa
Hỏi dồn dập mấy câu: 
“Mầy ăn gì để sống, 
Đánh với ông bấy lâu 
Chiến khu bị phong tỏa
Gạo, cơm hết còn đâu? 
Mầy ăn gì để sống?
Trâu bò chết hết rồi 
Cầy bừa bị đốt sạch
Đập nát hết lúa rồi. 
Mầy ăn gì để sống?
Củ chụp hay củ nần
Ăn cái gì là chính
Sống được mãi trong rừng.
Nói thì ông sẽ thả. 
Không thì đừng trách trời
Dao găm này mổ bụng
Cũng lòi ra mà thôi...”. 
Anh du kích không nói.
Răng cắn chặt lấy môi
Trước mưa roi đẫm máu
Miệng anh cứ như cười.
Thằng Tây càng căm tức:
“Tao quyết sẽ giết mầy,
Khám phá điều bí mật. 
Mổ bụng mầy rõ ngay. 
Anh du kích không nói
Dao găm rạch dạ dày
Thằng Tây trợn mắt trắng. 
Nhìn mấy mảnh khoai mì! 
Anh du kích đã chết rồi 
Đồng bào thương tiếc, cúng xôi mỗi mùa.

Bình Định 1953