Hiển thị các bài đăng có nhãn Huỳnh Văn Nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Huỳnh Văn Nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

Cây Thông Già Và Anh Thợ Rừng - Huỳnh Văn Nghệ

Dưới bóng cây thông già 
Anh thợ rừng nghỉ trưa 
Gác đầu trên cán búa
Nghe chim hát vu vơ... 

Mơ thấy thông thành người 
Một lão già râu bạc 
Ngồi kể lể chuyện đời
Lời ôn tồn tha thiết: 

“Lưỡi búa anh bén quá 
Chặt tôi đành sao anh 
Chúng mình nào xa lạ...
Cùng khổ trong chiến tranh.

Cả họ rừng tôi đây 
Con sóc đến cây cầy
Không một người theo Tây
Không một ai theo Mỹ

Chúng tôi quyết bám rễ 
Đứng giữ mảnh đất này 
Dù đội bom chịu lửa 
Một bước chẳng hề lui

Rừng ta che bộ đội
Rừng ta vây quân thù 
Tuy rừng chưa biết nói 
Chuyện rừng đã nên thơ.

Quân thù đã phá hủy
Hai triệu mẫu rừng xanh 
Mối thù này phải trả 
Hỡi loài người văn minh 

Đất rừng còn nhức nhối
Hố bom khoét thân mình 
Cây dầu còn rỉ máu
Vết đạn vẫn chưa lành.

Rừng đang kêu cấp cứu 
Ú ớ chẳng nên lời 
Tiếng rừng nào ai hiểu
Chỉ gió thổi, thông reo. 

Anh hãy thương rừng với 
Chặt nhẹ búa mà thôi 
Để núi rừng đâm chồi 
Sống cho đời thêm đẹp

Vì lợi ích cả nước 
Trước mắt và lâu dài 
Nghĩ kỹ mới ra tay 
Kẻo ngày mai ân hận. 

Lời Bác Hồ căn dặn 
“Phải trồng cây, gây rừng” 
Khó khăn cùng ráng chịu 
Tiêu diệt rừng sao đang.

Rừng chết dễ như chơi 
Vừa ngã xuống, vừa cười 
Thương đời không bóng mát 
Ai che đất, che trời. 

Chim thú không chỗ sống
Bước lưu vong ngậm ngùi
Mất rừng tan tổ ấm
Của tổ tiên loài người.

Dân mình còn gian khổ
Hòa bình chưa ăn mừng
Lo thiếu gạo, thiếu gỗ
Nhưng phải bảo vệ rừng.

Ngày mai rừng tươi lại
Cho người đỡ nắng mưa
Thêm lúa thơm, gỗ quý
Suối trong veo, bốn mùa...”

Anh thợ rừng tỉnh giấc
Ngơ ngác nhìn mênh mông
Tìm ông già râu bạc
Chỉ chim hót cành thông.

Đường về lúa ngoảnh lại
Chỉ thấy ngọn thông già
Như một chàng dũng sĩ
Đứng gác rừng bao la.

7-3- 1976

Chiến Khu Đ Chống Bão - Huỳnh Văn Nghệ

Rùng rợn giữa đêm mưa
Tiếng vợ khóc gọi chồng chới với:
“Con trôi rồi, con trôi theo bè chuối...!” 
Không tiếng trả lời 
Chỉ từ nóc nhà tranh 
Tiếng chó đứng sủa hời.
Trời sáng rồi, mưa vẫn cứ rơi
Những nóc nhà trôi
Những thân cây đổ.
Suối ngập thành sông, sông tràn thành biển
Mênh mông sóng vỗ chân trời. 
Thôi hết rồi, hết lúa, hết khoai 
Chiến khu Đồng Nai lại đói. 
Con ngậm củ mài, cha nhơi củ chuối. 
Ứớt mắt chồng nhìn vợ nuốt vỏ khoai 
Đứt ruột mẹ tiếng con thơ đòi bú.
Voi cũng trôi tận Cù lao Phố 
Mấy con trâu vướng cột cầu Gành. 
Một tượng Phật dời lên nóc đình 
Đành chắp tay nhìn dòng nước lũ. 
Trút cả hũ, còn không đầy nắm muối
Cho ngày ăn cả đại đội Lam Sơn.
Ba người chia một vắt cơm. 
Tạm đỡ dạ cả tiểu đoàn chủ lực. 
Chèo chống ngày đêm, lênh đênh trên mặt nước.
Vớt của, vớt người. 
Thân trần chèo chống dưới mưa.
Tiếng cười vẫn nô đùa sóng gió.
Từng manh chiếu, quả dừa, chiếc bừa, bó đũa.
Vớt lên mang trả lại từng người.
Đồn Rạch Đông nước ngập sắp trôi
Lính ngụy lên nóc đồn kêu cầu cứu:
“Huyện đội Vĩnh Cửu ơi... Vĩnh Cửu,
Cứu chúng em, ơn trả, nghĩa đền”. 
Chiến sĩ ta, cười reo lên
Nghe lệnh đồng chí chính trị viên:
“Chèo nhanh lên, cứu chúng nó...”
Nhưng giặc Pháp muốn thừa cơ trận bão
Đánh chiến khu, một trận cho tiêu tan
Dồn sức tấn công, lừa bịp, chiêu hàng.
Tăng cường truyền đơn và bom pháo.
Cả chiến khu đêm nay không ngủ 
Tụ năm, tụ ba, 
Bàn tán về tiểu đoàn ba trăm ba:
“Dù thiếu cơm, dù thiếu áo 
Đánh giặc càng hay, 
Ăn củ mì cũng giỏi
Thế nào cũng thắng, và... phải thắng!”

Bỗng được tin loa:
“Ta tiêu diệt hoàn toàn đồn Bến Sắn”.
Tiệc liên hoan có bát cơm gạo trắng
Tiếng cười, tiếng hát, vang rừng.

Hà Nội 1960.

Cái Chết Của Anh Xiểng - Huỳnh Văn Nghệ

Đầu năm 1946, ông Nguyễn Văn Xiểng, Nghị sĩ Quốc hội người thiểu số tỉnh Biên Hòa trên đường đi Hà Nội để họp Quốc hội lần đầu tiên, bị giặc bắt giết hại tại Xuân Lộc.

Anh Xiểng mở mắt tròn xoe 
Trừng trừng nhìn lũ giặc
Đang trói vòng anh
Sau xe Jeep
Giữa biển nắng trưa vàng
Ngoảnh đầu nhìn ngọn núi Chứa Chan
Nhớ lại ngày anh trúng cử:
Đồng bào Xuân Lộc
Từ rừng xanh, núi đỏ kéo về đây.
Tiệc mừng anh, đêm ấy cả rừng say
Trăng lảo đảo, trên chăn mây, gối núi.
Mới hôm qua, chia tay trên bờ suối
Mừng mừng, tủi tủi, mến thương. 
Từng con chim, cái sóc, cành hương 
Cũng thỏ thẻ vuốt ve, lưu luyến...
Một dây siết hai cổ tay tê điếng
Nhựa đường trưa như điện đốt bàn chân
Nhưng ngọn núi Chứa Chan
Vẫn cao đầu hiên ngang dưới nắng.
Lời kêu gọi của núi rừng
Còn vang lừng trong từng tiếng suối, lời chim.
Anh vẫn đứng lặng im, 
Trước bao nhiêu lời dụ, dọa: 
“Không biết nói thì cúi đầu cũng được
Chịu đầu Tây, cho về huyện làm quan
Không thì xe sẽ kéo xác trên đường”. 
Anh vẫn đứng lặng im 
Hiên ngang như ngọn núi. 
Máu căm thù dâng lên trong mắt đỏ
Nhìn lũ giặc như hùm thiêng nhìn chó
Bỗng gầm lên mấy tiếng vang trời:
“Không, không đầu Tây
Tao thề chết tại đây!”
Chiếc xe hốt hoảng rồ ga
Phóng tới như điên, kéo anh ngã gục 
Từ cao xa ngọn Chứa Chan còn thấy 
Thây một anh hùng dân tộc 
Đuổi theo xe như một khối căm hờn
Máu anh đỏ mãi ruộng vườn
Núi rừng Xuân Lộc nhớ thương đời đời.

Hà Nội 1956

Hành Quân - Huỳnh Văn Nghệ

Đoàn quân đi như thân rắn uốn
Quanh đồi, qua suối, qua đồng, 
Qua xóm làng như dải lụa cong cong
Êm như dòng nước.
Trẻ em chạy theo nhìn không chớp mắt. 
Đếm hoài chưa hết đoàn quân. 
Lúa khoai mừng đếm ướt những bàn chân,
Cành lá ngụy trang múa reo trên mũ áo.
Cơm vắt ban đêm ngày không đỏ lửa,
Thương đồng chí anh nuôi cặp mắt mơ màng.
Chiếc nồi đồng há miệng thênh thang
Như buồn ngủ ngáp dài vô tận.
Thương anh trinh - liên suốt ngày lận đận
Chạy như thoi gác trước canh sau.
Thương chị cứu thương mũ chẳng vừa đầu.
Vì tiếc mãi chưa “hy sinh” búi tóc.
Đường gập ghềnh, quanh co, hố, dốc,
Thương anh công binh lo từng bước cho đoàn,
Nối cây rừng thành cầu dọc, cầu ngang 
Lưỡi rựa bén chưa bao giờ được nghỉ
Thương đoàn ngựa thồ vừa đi vừa thở
Lưng nặng oằn chân bước mãi không than.
Bờ suối xanh mừng có lệnh nghỉ chân
Cả ngựa lẫn người cong lưng uống nước.
Thương đồng chí chỉ huy
Tới giờ đi rút vội điếu thuốc
Thương cả đoàn quân đi dưới nắng mưa
Áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt,
Nước lắt ống tre; muối mè cơm vắt 
Nương áo nhau lần bước đêm rừng. 
Cũng mệt rã rời, mỏi cả tay chân
Nhưng chị cứu thương đến đâu
Nghe cười tràn đến đó.
Cũng có người vừa đi vừa mớ.
Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ:
“Ông Địa cười xe địch sẽ thành tro,
Xung phong ra đường vung cao mã tấu.
Giặc quỳ xuống lạy xin tha thứ: 
“Cho em về kẻo tội nghiệp vợ con”. 
“Nhưng thôi đừng đi lính nữa nghe không?”. 
Bận trở về được đi đường tắt.
Súng giặc nặng vai, đầu thêm mũ sắt.
Giày đinh thu được rộng chật cứ mang
Vang bước đoàn quân chiến thắng giữa đường làng,
Đêm liên hoan đồng bào mừng trăng sáng.

1955

Hội Nghị Bình Công - Huỳnh Văn Nghệ

Ngọn đèn dầu leo lét 
Đại đội họp bình công.
Đại đội phó giải thích
Chiến sĩ chưa chịu thông.
Hầu hết cho rằng vội:
“Kháng chiến chưa thành công
Chúng mình còn có tội
Với dân tộc, núi sông.
Chỉ những người chiến đấu
Đến giọt máu cuối cùng
Mới cần được bình công
Trước chúng mình tất cả.
Bao người mòn ngục tối
Bao xác lạc giữa rừng,
Ai bờ sông, hóc núi
Người còn mộ, người không.
Họ cần được khen thưởng
Chớ chưa phải chúng ta.
Chúng mình còn sung sướng
Còn đánh giặc được mà. 
Đồng ý các đồng chí
Gác lại cuộc bình công
Độc lập làm luôn thể 
Một lần đỡ mất công. 
Giờ lo đánh giặc đã
Rủi có chết thì thôi, 
Thành công khen tất cả
Cho về thủ đô chơi”.
Đại đội phó lúng túng
Nghe họ nói hay hay, 
Nhìn ông đại đội trưởng 
Nhờ kết luận kẻo khuya. 
“Thi đua là lệnh Bác
Để kháng chiến thành công. 
Muốn thi đua giết giặc 
Đại đội phải bình công.
Chuyện trước, sau sẽ hay
Kể từ trận ngày mai
Có bình công khen thưởng
Anh em mình ráng ghi
Cả công mình, công bạn”. 
Đèn tắt, lệnh giải tán
Anh em cười vang rừng. 
Mò mắc võng, giăng màn 
Vừa thách thi chiến đấu.

1954

Du Kích Đồng Nai - Huỳnh Văn Nghệ

Kính tặng anh Chín Quỳ - người chỉ huy du kích Đồng Nai.

Chiến khu Đ có từ thuở ấy 
Có một anh đồng chí
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi
Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai
Lập chiến khu nuôi chí lớn. 
Nước ngọt, dân thương, rừng rộng 
Tiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tề
Bạn với núi rừng, trái cam, măng le.
Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm:
Thuyền Hít-le chìm đắm. 
Biển Liên Xô sóng đỏ dâng trào 
Pháp mở cửa Đông Dương quỳ gối
Rước Nhật vào
Hơn hai triệu đồng bào chết đói...
Chi đội vũ trang mới tròn tiểu đội
Cơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên.
Phải chống ngụy, tề bố ráp ngày đêm
Suất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật.
Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thức
Mỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng:
Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng...
Bỗng một chiều sương 
Gió thu đang tơ vàng lá cám.
Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm. 
Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son. 
Lá cờ son 
Tay anh hé mờ
Lệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ. 
Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình. 
Đọc truyền đơn như đọc bức thư tình
Từng chữ một đánh vần đến thuộc
Chiến khu xanh đêm vui đỏ đuốc
Suối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều.
Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điều
Mua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh.
Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánh
Như tim vàng ngự giữa lòng son.
Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng Tám
Chiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng.
Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưng
Áo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa.
Những tròng mắt bừng bừng ánh lửa 
Gót chân chai giậm vỡ nhựa đường. 
Cờ đỏ sao vàng
Đã ngập trời Nam Bộ: 
Những đoàn người như thác đổ 
Tiếng hò reo đất lở nghiêng trời 
Bọn giặc Nhật rụng rời 
Quỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh 

Người du kích Đồng Nai gác tòa thị sảnh
Ngỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu.

Bắc Sơn 1954

Lịch Sử Quê Hương - Huỳnh Văn Nghệ

Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc 
Chán ghét vua quan áp bức. 
Họ đạp núi rừng vượt sóng bể khơi. 
Đi vào Nam làm lại cuộc đời 
Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc.

Có con sông cũng từ hướng Bắc 
Vượt núi rừng ghềnh thác
Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao.
Người gặp sông
Ngụm nước mát ngọt ngào
Thề với trăng sao cùng nhau kết bạn 
Chung nhịp bước về miền Nam nắng sáng
Nơi trời xanh nhởn nhơ đàn cò trắng
Nơi đồng xanh ngơ ngẩn đám nai vàng.
Bờ hoang vu hạ trại một chiều sương
Lột da nai
Lửa cơm chiều bốc khói 
Họ đặt tên Đồng Nai cho trời đất mới. 
Bao ngày gian khổ 
Hằng trăm năm tranh đấu với núi rừng
Mồ hôi, nước mắt, tay sưng 
Mới có được góc trời Nam tươi mát 
Đồng lúa thơm, vườn bưởi đường, cam mật
Tiếng trẻ thơ cười hát sân trường,
Hồi chuông chùa êm gõ sườn non
Mái tranh vàng khói cơm chiều quyến luyến.
Thuyền dưới bến dập dìu buồm cánh én.
Xe trên đường lẻng kẻng nhạc ngựa vang.
Ôi! Tân Uyên quê mẹ đẹp muôn vàn.

Bắc Sơn 1954

Một Trận Chống Càn - Huỳnh Văn Nghệ

Rùng rợn tiếng loa vang 
Giữa rừng khuya giá lạnh
“Chống càn... chống càn
Đồng bào chuẩn bị chống càn...”
Máy nói trung đoàn tiếp theo reo lệnh: 
“Chôn ngay máy tiện
Tắt hết lửa lò
Tháo giấu máy in
Gánh dời kho gạo
Sơ tán hết trẻ thơ, già yếu 
Ngụy trang cả hầm lúa, hang heo...” 
Máy nói cứ reo... 
Trinh sát chạy chân không bén đất.
Tin tức trở về từng phút, từng giây. 
“Tây đã vào Đất Cuốc
Xe tăng gầm phía Bào Đế, Tân Dân
Ở Lạc An, chúng đang đốt nhà dân
Nhổ từng gốc khoai
Cướp từng tô thóc, 
Phía Cây Đào, rền tiếng súng cà nông
Đất Tân Tịch rỗ hố bom, đại bác”.
Rách nát thân dừa 
Xác xơ ngọn chuối 
Hai vợ chồng nhìn nhau không nói 
Nhặt từng mảnh xương con 
Gói lại
Đem chôn 
Lệ trào tuôn 
Không tắt lửa căm hờn
Trong bốn mắt.
Ôi chiến khu Tân Uyên! 
Lại cháy nữa mái tranh, rẫy lúa,
Lại chảy nữa máu đồng bào đau khổ 
Ngồi đứng không yên
Tiểu đoàn chủ lực từ Long Nguyên
Mừng được lệnh đạp đêm về căn cứ.
Cành lá ướt, sương vuốt ve mũ, áo
Đồng bào gánh bánh, nước đón mừng...
Trời vừa rạng đông 
Sông Đồng Nai bỗng cười tung sóng trắng
Thủy lôi ta hạ tàu giặc ở Xóm Đèn 
Tây trắng cố dìm Tây đen
Chen nhau bơi, chui đầu vào lưới đạn. 
Địa lôi ta nổ trên đường Hố Cạn 
Làm gục đầu mấy chiếc xe tăng 
Nát thây bọn ngụy thổ, Việt gian. 
Còn hai chân vướng tòn teng trên cành.
Băng hầm chông, lựu đạn.
Dân quân hạ “ông lớn” khắp nơi.
Bọn nhảy dù chân chưa bén lúa tươi
Bị cọc bén chĩa ngay lòi ruột
Con “đầm già” bị một chùm đạn mút
Lảo đảo bay về khói vuốt theo đuôi.
“Giàn nhạc” ca nông đã câm họng lâu rồi
Chiếc “cán gáo” đã chuồn mất hút
Tiếng kèn của tiểu đoàn chủ lực 
Đã vang rền phía Lò Than 
Đồng bào reo mừng 
Mẹ vội hái củi khô
Đun thêm nồi bánh tét, 
Vừa vái Trời, với Phật. 
“Phù hộ trung đoàn, giết giặc lập công!”.
Nồi bánh tét chưa sôi
Tin giặc đã chạy rồi
Bỏ lại cả lon quan, xác lính.
Đêm liên hoan mẹ hò lanh lảnh:
“Khu Đ đi dễ khó về
Lính đi bỏ mạng, quan về mất lon”. 

Chiến Khu Đ - 1952

Rừng Đẹp - Huỳnh Văn Nghệ

Rừng đẹp như một bài thơ cổ
Cành cao vượn hú
Ríu rít tổ chim. 
Bờ suối đỏ hoa sim
Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa.
Đêm trăng một người một ngựa 
Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi. 
Hội nghị giữa trời
Chim, lá cũng góp lời góp ý.
Mắc võng cây này qua cây ấy
Củi khô lửa cháy ấm đêm đông.
Tắm, ăn nước suối một giòng.
Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới.
Củ mì luộc chia đôi chấm muối
Mặn bùi tình nghĩa anh em.
Cửa mở suốt đêm
Doanh trại, nhà dân, cơ quan chính phủ
Chung một mái tranh
Cởi mở tâm tình 
Rách lành manh áo che thân
Không phân biệt nhân dân, cán bộ.
Rồi những chiều nào đó
Kháng chiến thành công 
Giữa cảnh ngựa xe thành phố
Gặp lại bạn bè hay với con, với vợ
Ngồi kể lại chuyện rừng xanh núi đỏ
Tình chiến khu còn đậm mãi ấm chè thơm.

Chiến khu Đ - 1951

Giữ Bí Mật - Huỳnh Văn Nghệ

Bắt được anh du kích
Thằng Tây xồm vểnh râu
Tuốt dao găm hăm dọa
Hỏi dồn dập mấy câu: 
“Mầy ăn gì để sống, 
Đánh với ông bấy lâu 
Chiến khu bị phong tỏa
Gạo, cơm hết còn đâu? 
Mầy ăn gì để sống?
Trâu bò chết hết rồi 
Cầy bừa bị đốt sạch
Đập nát hết lúa rồi. 
Mầy ăn gì để sống?
Củ chụp hay củ nần
Ăn cái gì là chính
Sống được mãi trong rừng.
Nói thì ông sẽ thả. 
Không thì đừng trách trời
Dao găm này mổ bụng
Cũng lòi ra mà thôi...”. 
Anh du kích không nói.
Răng cắn chặt lấy môi
Trước mưa roi đẫm máu
Miệng anh cứ như cười.
Thằng Tây càng căm tức:
“Tao quyết sẽ giết mầy,
Khám phá điều bí mật. 
Mổ bụng mầy rõ ngay. 
Anh du kích không nói
Dao găm rạch dạ dày
Thằng Tây trợn mắt trắng. 
Nhìn mấy mảnh khoai mì! 
Anh du kích đã chết rồi 
Đồng bào thương tiếc, cúng xôi mỗi mùa.

Bình Định 1953

Tình Súng - Huỳnh Văn Nghệ

Đêm qua ôm súng nằm mê
Thấy ngày độc lập về quê thăm nhà.
Bờ sông đã thấy mẹ già 
Đầu phơ, tóc bạc, mắt mờ, gậy rung. 
Nhìn con một phút, ngại ngùng
Ôm con, mẹ khóc, ngập ngừng lời thương.
“Thật mày là Vệ Quốc đoàn 
Trời ơi danh dự, vinh quang cho nhà!
Thằng này nó vẫn giống cha. 
Càng cao, càng lớn lại vừa đẹp trai
Lại thêm khẩu súng trên vai 
Ngôi sao trên nón, oai như ông thần. 
Hỏi mày giết giặc mấy thằng 
Vợ con, sự nghiệp, chiến công những gì?”
Ta nghẹn ngào nhìn mẹ
Sung sướng ngập tràn lòng
“Thưa mẹ đây báng súng 
Còn ghi mấy chiến công, 
Chỗ này là trận Bưng Còng
Còn đây Bến Sắn thành công mới rồi
Trảng Bom lửa cháy ngập trời
Là Ngà xe giặc, tơi bời giữa trưa
Còn đây là trận GÒ Dưa
Lệnh kèn chưa dứt, giặc thua tan tành.
Máu thù mã tấu còn tanh
Súng còn thơm khói, đôi chân ướt lầy. 
Vết thương Mỹ Quới còn đây 
Nhăn nheo da ngực khác gì huân chương”. 
Mẹ hôn vết thương con 
Như lễ gắn huân chương cho mẹ. 
Hôn báng súng như dâu hiền mới cưới.
Bàn tay gầy, vuốt mãi tóc con trai...
Giữa cơn mê văng vẳng tiếng ru hời.
Bỗng giật mình tỉnh giấc 
Báng súng âm bàn tay. 
Mấy tiếng ó ma lai 
Ngân dài rừng khuya vắng.
Súng gọi gươm chào hôn nhau lẻng kẻng.
Không ai chờ sáng
Cả trung đoàn đã đứng dậy, hành quân.
Bước chập chờn, luyến tiếc giấc mơ Xuân.

Chiến khu Đ 1952

Em Bé Liên Lạc - Huỳnh Văn Nghệ

Nhà em ở xóm Cây Dâu
Trước kia ở đợ giữ trâu cho người
Nay em đánh giặc được rồi 
Một mình bảo đảm thơ từ qua sông 
Ngày đêm nước lớn, nước ròng
Em ôm thân chuối bơi không cần thuyền.
Mẹ em ngồi đứng không yên 
Thương em thù giặc, ngày đêm phập phồng
Nghe từng loạt súng bờ sông 
Mà nghe như đạn xé lòng, xé gan.
Quân thù vừa tóm được em 
Mẹ lăn vào bót xin đem em về 
“Nó chăn trâu bắt làm gì 
Nó chưa đủ sức đánh Tây đâu mà...”
Ba ngày bị đánh, bị tra 
Mắt lồi, má tím, máu trào môi đen
Mẹ em cũng hết lời khuyên:
“Cứ khai cho mẹ, để yên cho rồi
Thà rằng con sống mồ côi
Còn hơn để mẹ suốt đời khóc con!”.
Lắc đầu em cố nói “không”
Giặc hăm cắt cổ, thả sông, em cười. 
Hôm sau dòng nước Đồng Nai 
Đưa ra biển cả một thây không đầu. 
Mẹ em, chị Sáu Cây Dâu 
Xin đi bộ đội trả thù cho con. 

Chiến khu Đ - 1953

Mẹ Nam Con Bắc - Huỳnh Văn Nghệ

Mẹ bắt được lá thăm
Cầm lo le, bối rối 
Nhờ cán bộ đọc giùm
Tên đứa con bộ đội.

“Anh tên Nguyễn Văn Đối 
Quê quán ở Hưng Yên
Sở cao su Thuận Lợi 
Nhập ngũ cướp chính quyền”.

Mẹ mừng rơi nước mắt,
Khoe khắp cả xóm làng:
Được đứa con người Bắc
Chiến sĩ của trung đoàn.

Được phép về nhìn mẹ 
Đối mừng, kể đuôi đầu. 
Mẹ bảo: “Nói chậm nhé
Má nghe chẳng kịp đâu”.

Mẹ làm gà hái bưởi
Bảo ăn, Đối chối từ
Mẹ giận: “Mày chê hả?
Tao đánh đòn bây giờ”. 

“Má có gì ăn nấy 
Mới là tình mẹ con
Ăn xong tao vá áo
Mới cho về trung đoàn”.

Một hôm đi công tác 
Đối bị bắt vào đồn.
Mẹ thương con đứt ruột
Chạy sứt cả da chơn.

“Con mày sao người Bắc?
Thằng Tây trợn mắt nhìn
Mẹ vừa kể vừa khóc 
Ứớt cả mắt ngụy binh. 

“Chúng tôi vào Nam Bộ
Từ thuở nọ lâu rồi. 
Con tôi, tôi biết rõ 
Áo ba lỗ vá vai 

Nhà tôi nó trồng khoai 
Bây giờ đang có củ.
Cả làng ai cũng rõ 
Ông hỏi lại mà coi!”. 

Một ngụy binh người Bắc
Đi điều tra việc này
Trở về: “Thưa quan sếp 
Lời bà nói không sai”. 

Anh Đối được thả ngay 
Cả làng cười khúc khích. 
Bỗng hôm nào mẹ chết 
Vì mảnh đạn ca nông. 

Chết không chịu nhắm mắt 
Vì đợi mãi đứa con.
Ba ngày anh Đối khóc 
Đầu quấn chiếc khăn tang

Tình mẹ Nam con Bắc 
Rào rạt lòng trung đoàn. 

1953

Giữa năm 1946, ở Biên Hòa có tổ chức phong trào mẹ chiến sĩ. Đồng bào mỗi xã bắt thăm được tên cán bộ hay chiến sĩ nào thì nhận người ấy làm “con kháng chiến” (Ghi chú của tác giả)

Nấm Mộ Giữa Rừng - Huỳnh Văn Nghệ

Đêm thao thức bên lò lựu đạn
Ngày say sưa quay máy tiện, máy bào.
Quá sức, ốm đau 
Chén thuốc rễ cây rừng không cứu được.

Lòng anh em xót xa từng nhịp cuốc 
Chôn anh, chiếu rách bó thân gầy.
Gỗ mộ bia có đề rõ tháng, ngày.
Chức vụ, họ tên, quê quán.

Nhưng mới ba mùa mưa, nắng.
Gỗ sơn kia không chịu nổi sức rừng. 
Mộ bia mòn, chỉ còn chữ “công nhân”. 
Còn tên, tuổi mối gặm dần hết cả.

Quê quán anh: Ba Son hay Cẩm Phả?
Mộ bia đành không ghi giữ được lâu.
Tinh thần anh, chim hát mãi nghìn thu.

Chiến khu Đ - 1951

Về Làng - Huỳnh Văn Nghệ

Lẻn về thăm lại làng xưa
Vườn cây xơ xác gió lùa lá khô
Sông xanh không một chuyến đò
Đồi cao vắng tiếng chuông chùa công phu.

Ruộng đồng hoang trắng xương trâu
Nhà tan, cửa nát, lòng sầu mênh mông...
Lan ơi, từ độ thương chồng,
Ngờ chăng em, cảnh tan lòng hôm nay!

Nhớ ngày tay bạn trong tay
Vườn thơm chia trái, sông dài buông mơ.
Chiều nay người ngựa bơ vơ
Nhớ em nuôi bốn con thơ trong tù. 

Súng đồn khua động chiến khu. 
Quay về vó ngựa như tơ vương lòng.
Đồn thù phải đổ xuống sông. 
Tình ta nối lại một dòng mơ xanh.

Tân Hòa, Chiến khu Đ - 1950

Bờ Sông Bị Chiếm - Huỳnh Văn Nghệ

Mất cả bờ sông xanh
Mất luôn con đường đá đỏ
Thôi hết rồi nước ngọt
Thôi hết rồi gió mát bờ tre

Gái Tân Uyên ứa lệ trưa hè
Thương vườn cũ dâu, chè không ai tưới.
Trai Tân Tịch về bờ sông hái bưởi 
Cũng chết oan dưới mũi súng quân thù.

Mỏi mòn thương nhớ người xa,
Vườn xơ xác gốc trầu buồn ủ rũ 
Dây kẽm gai rối nuồi đường bến cũ
Mắc cỡ tây chụp phủ bãi rau lang

Hàng tháp canh như chó dữ nhe răng
Từng loạt súng dọa ánh trăng, dòng nước.
Tàu há mồm, chuyển xuôi, chuyển ngược
Chỉ sâu thêm mặt nước, vết căm hờn.

Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu
Mất nước ngọt, bờ tre gió mát.
Thuyền tiếp tế, lúa khoai chìm đáy nước
Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ.

Nhưng quân thù vẫn sợ lòng chiến khu
Cờ đỏ vẫn phất cao cành cổ thụ
Giữa lòng dân hoa vẫn nở niềm tin: 
Việt Minh còn sẽ chiếm lại sông xanh.

Chiến khu Đ - 1950

Mất Tân Uyên - Huỳnh Văn Nghệ

Chỉ có mây bay lên trên trời vắng!
Đáy sông xanh đâu còn bóng lầu son.
Tiếng xe ngựa vang xa trong dĩ vãng 
Đây tro tàn, gạch nát, ôi tang thương.

Nhớ Tân Uyên thuở thanh bình yêu mến
Gái nhà quê hợp chợ má hồng tươi 
Thuyền bốn phương về đây lưu luyến bến
Dòng sông xanh êm thắm nhẹ nhàng trôi.

Chiến tranh đến chuyển rung trời đất Việt
Mẹ lo buồn rười rượi trước ngày mai.
Lệnh Nguyễn Bình vừa oai nghiêm, tha thiết:
“Đồng bào ơi! Ta quyết chiến phen này!”.

Lệnh truyền xuống tiếng reo hò vang dậy,
Lửa Tân Uyên cao ngọn đuốc tưng bừng 
Ra mặt trận chen chân trai lẫn gái
Mang trầu cau mẹ bám gót dân quân.

Trận Tân Uyên cuối mùa Đông năm ấy
Lần đầu tiên giặc Pháp nếm chua cay.
Lần đầu tiên đạo viễn chinh lừng lẫy
Phải lui về bỏ lại mấy trăm thây.

Rồi từ đó Tân Uyên thành chiến địa
Máu quân thù tiếp tục chảy không thôi 
Dòng sông xanh đã nhuộm màu máu tía, 
Thuyền bến xưa phiêu bạt bốn phương trời.

Và từ đó dân Tân Uyên anh dũng
Vào chiến khu dựng lại mái lều tranh
Quyết kháng chiến cho đến ngày toàn thắng
Bóng cờ son in lại đáy sông xanh.

Chiến khu Đ 1949

Rừng Nhớ Người Đi - Huỳnh Văn Nghệ

Kính tặng Trung tướng Nguyễn Bình, những chiến sĩ Lạc An, đã từ biệt chiến khu Đ để về Đồng Tháp năm 1946.

Từ độ chàng đi vung kiếm thép
Mịt mù khói lửa khuất binh nhung. 
Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ
Hồi hộp nghe từng tin chiến công. 

Chòi cũ còn đây mái xác xơ
Tro tàn bếp lạnh, nhớ người xưa
Còn đâu những sáng tưng bừng nắng
Thử súng rền vang dưới bóng cờ.

Còn đây mái suối, chiếc cầu con
Bến đá chân anh bước đã mòn
Chim lắng, nước ngừng không hát nữa
Bãi hoang, dấu ngựa cỏ rêu phong.

Ngày đi có bướm chim đưa tiễn
Cành xanh bịn rịn vuốt yên cương.
Từ biệt Lạc An về Đồng Tháp.
Đâu biết rừng xanh cũng đoạn trường.

Từ đó Lạc An mang nhớ thương
Ba thu sầu rụng lá muôn vàn
Bốn phương lửa khói tung mù mịt
Rừng ngại ngùng cho cánh phượng hoàng.

1947

Trở Về - Huỳnh Văn Nghệ

Kỷ niệm một giấc mơ ở chiến khu. 
Bảo Chánh, tháng 6 năm 1947.

Mây hường vương trước ngõ
Tiếng sáo trỗi mơ màng 
Hương đào đâu phương phất
Chập chờn mấy cánh loan. 

Thiên thai là nơi đây
Nơi nữ tiên hò hẹn
Nơi xưa nàng đưa tiễn
Ngày ta quyết xuống trần.

Thơ ta đề cửa sổ 
Nét chữ vẫn chưa phai
Ghi mối tình muôn thuở 
Trần tục với bồng lai. 

Gót ngọc ai dần đến
Rèm châu nhẹ vén lên
“Ôi nàng tiên yêu mến
Anh đây rồi nhớ, quên?”. 

Áo lam, quần lụa trắng
Khăn ngà, đôi dõn son
Hai mẹ con bước thoảng
Êm ái như đôi hồn.

Không ai nghe lời ta
Nàng không đoái nhìn ta
Cả lòng ta sụp đổ
Người đi qua hững hờ.

Mây hường tan trước ngõ
Tiếng sáo dứt bao giờ
Bầy loan theo nàng biến
Còn mình ta bơ vơ. 

Thoảng hương thừa tơ tóc
Nhắc tình ấm ngày xưa 
Rưng rưng hàng lệ ngọc
Nàng ơi, ta đâu ngờ!

Ta nhầm nàng sao được
Ngày xưa trong tay nhau.
Giống ta từng nét mặt
Con ta, ta quên nào!

Quay nhìn vào gương cũ:
Ta đã chết đi rồi! 
Bị trần gian bao phủ
Mấy lớp đời tanh hôi.

Trán nhăn buồn nhân loại
Mắt sâu sầu thế gian
Máu thù chưa rửa sạch
Đôi bàn tay gian nan.

Nợ trần đâu đã trả
Bao năm sống với đời 
Tình thương lòng tràn ngập
Tôi nào kể chi tôi.

Dưới tầng mây dày đặc 
Đưa lên tận lòng tôi
Lời oán hờn u uất
Tiếng thở than ngàn đời.

Vung kiếm tan lầu ngọc
Vội chắp cánh về trần.
Tôi giật mình tỉnh giấc 
Sung sướng giữa ngàn xuân.

Nhờ Bà Cô - Huỳnh Văn Nghệ

Giặc về lấy miễu Bà Cô
Đóng đồn kiểm soát đôi bờ sông xanh. 
Bắt dân đắp lũy xây thành
Giết người ngay giữa sân đình sớm trưa.

Đồng bào bàn tán xôn xao: 
“Bà Cô thiêng lắm, lẽ nào sợ Tây
Quân ta muốn đánh bót này
Xin bà phò hộ trở tay dễ dàng...”.

Xóm trên, xóm dưới luận bàn
Trăm mưu, ngàn kế trung đoàn tấn công.
Người thì chỉ cách qua sông
Đường đi nước bước thuộc lòng từng ly.
Người xin mở cửa thép gai
Người thề cướp súng cối xay cạnh đình.
Buồng thờ chúng nhốt tù binh
“Tượng bà, chúng bện bù nhìn gác sông”.
Tình hình nắm vững ngoài, trong
Trung đoàn quyết định tấn công bất ngờ.

Đêm qua súng nổ vang bờ
Nhiều người van vái Bà Cô dậy làng.
“Lạy bà phù hộ trung đoàn
Chiếm đồn giết giặc cho làng nước yên!” 
Rực trời lửa bốc cháy lên
Trẻ già mừng rỡ reo vang đôi bờ: 
“Nhờ Bà Cô, nhờ Bà Cô!”
Nhưng trung đoàn biết là nhờ nhân dân!

Trận xong giải thích cả tuần 
Đồng bào mới chịu chính mình thắng Tây.

Chiến khu Đ 1949