黃 鶴 樓
昔 人 已 乘 黃 鶴 去
此 地 空 餘 黃 鶴 樓
黃 鶴 一 去 不 復 返
白 雲 千 載 空 悠 悠
晴 川 歷 歷 漢 陽 樹
芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲
日 暮 鄉 關 何 處 是
煙 波 江 上 使 人 愁
崔 顥
HOÀNG HẠC LÂU
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lình lịch Hán dương thụ
Phương thảo thê thê Anh vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Thôi Hiệu
Chú thích :
Hoàng hạc lâu: ở trên ghềnh đá Hoàng hộc, tại huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc
Tích nhân: theo sách Tề haì chí, người cởi hạc vàng qua nơi này là tiên Tử An. Còn có tục truyền Phí văn Vi thành tiên, thường cởi hạc về nghỉ ở lầu Hoàng hạc
Lịch lịch: rõ ràng
Hán Dương: địa điểm bên sông Dương tử tỉnh Hồ Bắc
Thê thê: vẻ phồn thịnh
Anh Vũ châu: khu bãi bến khúc sông Trường giang, tây nam Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc
Dịch nghĩa :
Người xưa đã cởi chim hạc vàng đi mất
Chốn này chỉ còn lại trơn tòa Hoàng hạc lâu
Hạc vàng đã đi rồi thì không trở về nữa
Mây trắng ngàn năm vẫn bay chơi vơi
Hàng cây ở Hán Dương nổi bật bên dòng sông quang tạnh
Cỏ thơm mọc mơn mởn trên bãi Anh Vũ
Chiều về bâng khuâng không biết quê hương ở đâu nhĩ
Khói và sóng trên sông gợi lên nổi buồn bã
Dịch thơ :Trần Trọng San
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất
Riêng lầu Hoàng hạc vẫn còn đây
Hạc đã một đi không trở lại
Man mác muôn đời mây trắng bay
Hán Dương sông tạnh cây in thắm
Anh Vũ bờ thơm cỏ biếc đầy
Chiều tối quê nhà đâu chẳng thấy
Trên sông khói sóng gợi buồn ai
Dịch thơ : Trần Trọng Kim
Người đi cỡi hạc từ xưa
Đất này Hoàng hạc còn lưu một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông
Hán Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu
Dịch thơ : Khương Hữu Dụng
Ai cưỡi hạc vàng đi thuở trước
Trơ lầu Hàng hạc lại đây thôi
Hạc vàng một đã đi đi biệt
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi
Sông tạnh Hán dương cây sáng rỡ
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời
Hoàng hôn về đó quê đâu tá
Khói sóng đầy sông những ngậm ngùi
Dịch thơ : Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán dương sông tạnh cây bầy
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Dịch thơ : Nguyễn Hùng Lân
Người xưa cưỡi hạc đi lâu
Còn đây riêng một mái lầu trơ vơ
Hạc vàng giờ chỉ là mơ
Nghìn năm mây trắng vẫn hờ hững bay
Hán Dương sông tỏ bờ cây
Bãi Anh Vũ mướt cỏ đầy trước sau
Quê hương chiều xuống tìm đâu
Trên sông khói sóng thêm sầu lòng ai
Dịch thơ : Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây
Lầu Hạc còn xuông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẫn vơ bay
Vàng gieo bên Hán ngàn cây hửng
Xanh ngút châu Anh lớp cỏ dày
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây
Witter Bynner :
Where long ago a yellow crane bore a sage to heaven,
Nothing is left now but the Yellow Crane Terracẹ
The yellow crane never revisited earth,
And white clouds are flying without him for ever.
...Every tree in Hanyang becomes clear in the water,
And Parrot Island is a nest of sweet grasses;
But I look toward home, and twilight grows dark
With a mist of grief on the river waves.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét