蘇 武 廟
蘇 武 魂 銷 漢 使 前
古 祠 高 樹 兩 茫 然
雲 邊 雁 斷 胡 天 月
隴 上 羊 歸 塞 草 煙
迴 日 樓 臺 非 甲 帳
去 時 冠 劍 是 丁 年
茂 陵 不 見 封 侯 印
空 向 秋 波 哭 逝 川
溫 庭 筠
TÔ VŨ MIẾU
Tô vũ hồn tiêu hán sứ tiền
Cổ từ cao thụ lưỡng mang nhiên
Vân biên nhạn đoạn hồ thiên nguyệt
Lũng thượng dương qui tắc thảo yên
Hồi nhật lâu đài phi giáp trướng
Khứ thời quan kiếm thị đinh niên
Mậu lăng bất kiến phong hầu ấn
Không hướng thu ba khốc thệ xuyên
Ôn Đình Quân
Tô Vũ hồn tan Hán sứ xưa
Cây cao đền cũ thẳm trời xa
Bờ mây nhạn dứt trăng Hồ sáng
Lũng nọ dê về khói ải thưa
Về nước lâu đài đâu trướng phủ
Ra đi mũ kiếm thuở hào hoa
Mậu Lăng chẳng thấy phong hầu ấn
Trước sóng trời thu khóc nước thu
Dịch thơ : Lâm Trung Phú
Tô Vũ tiêu hồn trước Hán quan
Cây cao miếu cổ vẫn mang mang.
Cuối mây nhạn vắng, trăng hồ sáng
Trên lũng dê về, cỏ ải hoang!
Ngày lại, lầu đài không giáp trướng
Lúc đi, mũ kiếm thuở hiên ngang!
Ấn phong hầu Mậu Lăng không thấy
Chỉ sóng mây thu khóc suối ngàn!
Witter Bynner :
Though our envoy, Su Wu, is gone, body and soul,
This temple survives, these trees endurẹ...
Wildgeese through the clouds are still calling to the moon there
And hill-sheep unshepherded graze along the border.
...Returning, he found his country changed
Since with youthful cap and sword he had left it.
His bitter adventures had won him no titlẹ...
Autumn-waves endlessly sob in the river.
Chú thích :
Tô Vũ: tự Tử Khanh, đầu năm Đại Hán thời Hán Vũ đế, làm trung lang tướng cầm tiết đi sứ Thiền Vu, bị giam. Sau bị đày đi Vũ bắc hải, chăn dê; Năm thứ 6 Thủy nguyên xuân, về kinh sư làm Điển thuộc quốc
Giáp trướng: thời Hán Vũ đế, làm lều giáp ất, nói là lấy giáp ất, thứ tự đặt tên. "Phi giáp trướng" chỉ ta thán lâu đài đổi thay
Đinh niên: tráng niên
Mậu lăng: tên đất. Hán vũ đế dời hào kiệt các quốc quận về Mậu lăng, giờ phía đông bắc huyện Hưng Bình Thiểm Tây
Dịch nghĩa :
1. Tô Vũ (xem) tính mạng đã mất trước khi đi làm sứ thần nhà Hán
2. Đền cổ và cây cổ thụ cao đứng man mác hai bên
3. (Năm xưa) ở một bên trời mây nhạn không bay đến được chỉ thấy trời trăng nước Hồ
4. Chỉ thấy trên gò dê về chuồng, cỏ và sương khói miền biên tái
5. Lúc trở về lại lâu đài không còn như xưa (vua đã băng)
6. Lúc đi thì mũ đội kiếm đeo người còn tráng niên
7. Không thấy ấn phong hầu ở Mậu Lăng
8. Trơ trơ nhìn sóng mùa thu khóc thương cho dòng nước chảy mất rồi
Dịch thơ : Ngô Văn Phú
Tô Vũ hồn tan Hán sứ xưa
Cây cao đền cũ thẳm trời xa
Bờ mây nhạn dứt trăng Hồ sáng
Lũng nọ dê về khói ải thưa
Về nước lâu đài đâu trướng phủ
Ra đi mũ kiếm thuở hào hoa
Mậu Lăng chẳng thấy phong hầu ấn
Trước sóng trời thu khóc nước thu
Dịch thơ : Lâm Trung Phú
Tô Vũ tiêu hồn trước Hán quan
Cây cao miếu cổ vẫn mang mang.
Cuối mây nhạn vắng, trăng hồ sáng
Trên lũng dê về, cỏ ải hoang!
Ngày lại, lầu đài không giáp trướng
Lúc đi, mũ kiếm thuở hiên ngang!
Ấn phong hầu Mậu Lăng không thấy
Chỉ sóng mây thu khóc suối ngàn!
Witter Bynner :
This temple survives, these trees endurẹ...
Wildgeese through the clouds are still calling to the moon there
And hill-sheep unshepherded graze along the border.
...Returning, he found his country changed
Since with youthful cap and sword he had left it.
His bitter adventures had won him no titlẹ...
Autumn-waves endlessly sob in the river.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét