Thứ Hai, 20 tháng 4, 2015

Ðại Việt Sử Thi - Quyển Hai Mươi

GIA LONG HOÀNG ÐẾ ( 1802- 1820)

Năm Kỷ Mùi(1791) Adran lâm nạn
Vua bèn phong tước nhận Quận Công
Mộ phần nằm ở bên hông
Cửa thành Gia Ðịnh tượng đồng ghi ân

Nguyễn Quang Toản bất thần đột kích(1801)
Ba vạn binh chí quyết trả thù
Theo sông Nhật Lệ tiến vô
Liên minh với bọn tàu Ô phá thành

Bọn hải tạc tung hoành cướp bóc
Nên trong dân có khúc hát ngâm :
“Lạy trời cho chóng gió nồm
Ðể cho chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”

Ðúng vào lúc người ta oán hận
Bọn cầm quyền tán tận lương tâm
Tàu Ô đi kết làm thân
Làm cho ngao ngán lòng dân bấy giờ

GIA LONG HOÀNG ÐẾ ( 1802- 1820)

Hết tháng tư vào năm Nhăm Tuất(1802)
Giữa triều đình trước mặt muôn dân
Nguyễn Vương làm lễ đăng quang
Cáo cùng trời đất tại đàn Nam Giao

Ðàn Nam Giao lễ đài chính giữa
Vái với trời đất nước Ðại Nam
Gia Long niên hiệu đổi làm
Sáu điều ân điển vua ban cho đời

Vua Gia Long cử người đi sứ
Xin nhà Thanh tiến cử phong vương
Cờ trương chuẩn bị lên đường
Kéo quân Bắc tiến vượt giòng Linh Giang

Ðất Hà Trung Tây Sơn đang giữ
Vua Gia Long bèn cử thủy binh
Với quân bộ chiến thình lình
Ðột kích đánh phá chiếm thành Nghệ An

Trong mười ngày hành quân tốc thắng
Phe Gia Long chiếm đặng nhiều nơi
Tây Sơn quân tướng rối bời
Tìm đường trốn tránh chạy dài thoát thân

Thành Thăng Long dần dần hỗn loạn(1802)
Ðám tàn binh từng toán lang thang
Triều đình chẳng thấy bóng quan
ƠƯ nơi phủ huyện hoang tàn trống trơn

Lũ bại quân không ai chế ngự
Chúng trở thành thú dữ hại dân
Nghe tin quân Nguyễn đến gần
Tướng, quan Cảnh Thịnh vội vàng chuồn ngay

Trong những ngày Tây Sơn di tản
Cả kinh thành tán loạn khắp nơi
Ngã lên Kinh Bắc đầy người
Vắng hoe phố thị, một trời tang thương

Ngày Ðinh Tỵ trên đường Thượng Trấn
Vua Gia Long yết bản chiêu an
Vỗ về yên ủi lòng dân
Xử ngay những kẻ cướp đường lưu manh

Bùi thị Xuân vang danh nữ tướng
Từng cỡi voi giữa chốn ba quân
Ðiều binh rút đến Thạch Chương
Bị quân Nguyễn Ánh đón đường bắt giam

Vũ văn Dũng chạy ngang Ngọc Xá
Cùng ba người bộ hạ mang theo
Bị dân chận lại trói meo
Khiêng về hành trại đánh hèo giam riêng

Nguyễn Quang Toản cùng em qua khỏi
Vượt Nhị Hà gần tới Xương Giang
Mái cong chùa cổ Thọ Xương
Dừng chân tạm trú tìm đường rút lui

Vua Gia Long lấy ngày đại thắng(1802)
Ðể làm ngày quốc thống nước ta
Kinh sư chiếu chỉ ban ra
Chiêu an thần tử dĩ hòa muôn dân

Ở Thăng Long còn đang rắm rối
Nguyễn văn Thành bổ tới tận nơi
Phân vùng mười trấn chia ngay
Bộ Binh, Hình, Hộ đặt người trông coi

Trong tháng mười vào ngày Kỷ Hợi
Xa giá về vừa tới tỉnh Thanh
Lập đàn tế cáo uy linh
Yết lăng Triệu Tổ sinh thành ra vua

Lễ hiến phù đem tù trảm quyết
Ngày hôm sau sai giết bại quân
Xiềng tay, trói ké, cùm chân
Vua tôi Cảnh Thịnh chém dần từng tên

Triều Tây Sơn nắm quyền Mậu Tuất(1778)
Ðến năm Nhâm Tuất nước mất vào tay(1802)
Gia Long kế tục lên thay
Giang sơn thống nhất từ rày về sau

Năm Quý Hợi (1803) bắt đầu đúc pháo
Cho ra lò chín khẩu thần công
Sai người đắp lại Thăng Long
Lập đền Văn Miếu, tiền đồng làm ngay

Sửa Phú Xuân dùng tài Văn Yến
Ðo đạc rồi nới điện rộng thêm
Vua thân vẽ kiểu đặt nền
Duyệt xem kiến trúc, đặt tên công trình

Ðộng Thạch Bích, người Kinh rất ít
Lũ man di lại thích đánh nhau
Tả quân Văn Duyệt quỳ tâu
Cho quân đi đánh tóm thu đất này

Truyền Văn Phú ra ngay hải đảo
Cụm Hoàng sa cửa đảc Sa Kỳ
Mộ dân ngoại tịch cho đi
Lập thành hải đội phòng khi cần dùng

Sứ nước Anh đem dâng cống vật(1803)
Xin thông thương Vua vẫn không cho
Xiêm La, Chân Lạp mang đồ
Sừng tê, sản, quốc thư dâng ngài

Vua Trung Quốc cử ngay sứ giả(1804)
Sang nước ta phù tá tấn phong
Chiếu thư có đoạn ở trong
Ban cho quốc hiệu Việt Nam bấy giờ

Ðể chính danh, truyền cho đúc ấn
Sáu bộ riêng khỏi lẫn vào nhau
Bắc Thành mời các sĩ phu
Ðem điều lợi hại trước sau luận bàn

Quốc Tử Giám sắc ban thành lập
Cho học sinh được cấp tiền lương
Chương trình giáo dục tỏ tường
Sưu tầm sách vở hiện còn trong dân

Nguyễn Công Trứ đệ dâng mười chuyện(1803)
Trứ là người ở huyện Nghi Xuân
Một người văn võ đa năng
Giỏi nghề đánh giặc lại sành khẩn hoang

Người Chà Và nhiễu nhương quấy rối
Bị quân ta đánh đuổi chạy dài
Vào tháng tám rước quan tài
Của vua Chiêu Thống di hài về quê(1804)

Ðúc Sách Vàng, xây nền xã tắc
ƠƯ kinh thành sắp đặt nghi trang
Thái hòa thổ môỳc sửa sang
Chọn ngày tháng tốt đăng quang thiết triều

Chọn niện hiệu Gia Long hoàng đế(1806)
Ðánh chuông vàng chiếu chỉ các nơi
Tám điều ân xá thay trời
Ðịnh ngày sóc vọng quan mời vào cung

Sửa lại thuế hợp lòng dân chúng
Cho lưu dân khỏi đóng ba năm
Ðịnh ra phép thử lúa bằng
Hai phần trăm lép trừ ngang chỗ này

Ðể hiểu rõ trong ngoài quan ải
Ðất nước mình của cải tài nguyên
Sai Lê Quang Ðịnh làm nên
Sách “Ðịa dư chí” trình lên cho Ngài

Sách mười quyển trình bày cặn kẽ
Cảnh núi sông hiểm thế, cầu đường
Thói quen, thổ sản, sơn quan
Nguồn sông, cửa biển, mỏ than, mỏ đồng

Tiếp đến việc sắc phong Chân Lạp(1807)
Nặc Ông Chân cống nạp mỗi năm
Phong vua của đất Cao Man
Vua ban chiếu chỉ cho làm Quốc Vương

Ở trong nước nhiễu nhương giặc cỏ
Phái người đi phủ dụ hoàn lương
Ðặt quan coi giữ đê đường(1809)
Thảo ra định lệ thuế buôn thương thuyền

Vua nước Xiêm đem đồ triều cống(1811)
Người Chân Lạp lại tưởng nước ta
Kết giao với nước Xiêm La
Vội vàng sai sứ đi qua điều trần

Năm Nhâm Thân(1812) tình hình Chân Lạp
Trong anh em tranh chấp lẫn nhau
Nặc Chân dâng biểu khẩn cầu
Vua sai Tả Tướng kéo vào Nam Vang

Mười ba ngàn quân binh thủy bộ
Lê văn Duyệt tới xứ Cao Man
Cho đắp thành mới Nam Vang
Lô Yêm cho đặt trữ lương khi cần

Lại giao cho Nặc Chân tiền của
Thêm mười ngàn hộc lúa để ăn
Sau khi ổn định an dân
Triệu hồi Tả Tướng đem quân trở về

Trước khi đi, bàn giao Phiên Chúa
Lưu ngàn quân bảo hộ Cao Man
Khiến dân Chân Lạp cùng làm
Ðào kênh Vĩnh Tế mở đàng giao thông

Xuống chiếu ban đào sông An cựu(1814)
Lại sai người đắp đập Hà Trung(1807)
Kim Ðôi cũng được khởi công(1810)
Tam Khê vét rộng nới thông thêm giòng(1817)

Cũng năm đó đào sông Bảo Ðịnh(1817)
Từ Cù Úc cho đến Mỹ Tho
Mã Trường vua lại cấp cho
Theo trong bản vẽ đào từ Phiên An

Cho thuyền buôn Ma cao và Pháp
Ðược ra vào tấp nập tự do
Riêng Ma cao, vua thưởng cho
Vì đem dâng bản địa đồ Hoàng Sa

Ðội Hoàng Sa quan gia họ Phạm
Lập hải trình khảo thám chung quanh
Ðến năm Bính Tý hoàn thành(1816)
Cử ngay hãi đội coi riêng vùng này

Việc quốc gia giải bày sau trước
Bộ “Quốc triều thực lục” soạn ra(1815)
Sai Thích, Sàng, Toản bộ ba
Làm quan tu sửa để mà chỉnh biên

Dâng vua xem “Quốc triều luật lệ”
Làm nếp nề giúp dễ cho quen
Cần tra điều luật xét phân
Sách 22 quyển rất cần cho dân

“Duyên hải lục” đem dâng ngự lãm
Khảo sát nơi nông cạn xa gần
Men theo bờ biển Việt Nam
Trăm bốn ba (143) cửa hải quan rõ ràng

Ðất nước ta dần dần thay đổi
Qua ngàn năm chìm nỗi thịnh suy
Bây giờ cột mốc biên thùy
Ðịa đồ hiệu đính , chỉnh qui rõ ràng

Nước Việt Nam thuộc Ðông Nam Á
Vị trí ngay tại ngả tư đường
Phía đông thuộc Thái Bình Dương
Phía tây Miến Ðiện , Thái Lan , Miên , Lào

Ở phương bắc đường vào Trung Quốc
Ải Nam Quan cắm mốc phân ranh
Ðông Nam nước biễn vây quanh
Cà mau , Phú quốc thuộc miền cực nam

Miền Ðông Bắc cao nguyên và núi
Những đường mòn giáp giới Trung Hoa
Cao nguyên Quản Bạ , Bắc Hà
Sông Hồng đổ xuống chảy qua Viêỳt Trì

Hồ Thất Khê , Lạng Sơn núi đá
Những dãy đồi Cẩm Phả , Tiên Yên
Cát Bà vùng đảo thiên nhiên
Hạ Long nước phẳng đất liền chân mây

Miền Tây Bắc Lào Cai Châu Mộc
Núi Sa pa , rừng đất Cúc Phương
Ðiện Biên , sông Mã , Mường Hum
Hoàng Liên Sơn xuống tận vùng Nghệ An

Miền đồng bằng ở vùng châu thổ
Của sông Hồng rất đổi phì nhiêu
Sơn Tây , Hà Nội tiếp theo
Hưng Yên , Phả Lại đất nhiều ven sông

Dãy Trường Sơn nhìn từ phía bắc
Thoặt trông như một bức trường thành
Tạo ra về mặt địa hình
Vách sườn của dãy nét riêng mỗi vùng

Trường Sơn Ðông dốc thì dựng đứng
Phía sườn Tây thoải xuống lưng chừng
Hoành Sơn đổi hướng tây đông
Ðèo Ngang một thoáng , Mũi Ròn ngoài khơi

Trường Sơn Nam chạy dài xuống tới
Ðất cuối cùng là núi Chứa Chan
Cao Nguyên năm lọai xếp tầng
Gia Lai ,Ðắc Lắc trải dàn về tây

Lang Biang, mặt quay ra biễn
Vùng Di Linh đất chuyễn địa hình
Ngã Ba biên Giới cao nguyên
Tạo thành khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời

Các đồng bằng vành đai Trung Bộ
Là các vùng châu thổ Thanh Hoa
Vượt suờn núi đá dôi ra
Từ Thanh Nghệ Tỉnh chạy qua Quảng Bình

Từ Trị Thiên đến vùng Nam Ngãi
Từ Bình Ðịnh cho tới Khánh Hòa
Ðồng bằng dàn trải bao la
Ðến vùng Ninh Thuận , Kê Gà phía trong

Các núi lửa Miền Ðông Nam bộ
Là cao nguyên đất đỏ hiện nay
Lộc Ninh , An Lộc phía tây
Chung quanh Long Khánh trải dài Trảng Bom

Hạ lưu sông Ðồng Nai rất thoải
Dưới dạng đồi chạy mãi phía đông
Ðan dày khe suối và sông
Tạo nên khí hậu vô cùng đặc trưng

Sông Cửu Long đồng bằng châu thổ
Ðồng Tháp Mười là chổ trũng sâu
Sông Tiền , sông Hậu cùng nhau
Mang phù sa lại bồi cao thành giồng

Ðất Vĩnh Long , Bến Tre , Sa Déc
Vùng Gò Công, đất sét Trà Vinh
Cần Thơ , Phụng Hiệp , U Minh
Hàm Luông , Rạch Giá , Hà Tiên cuối cùng

Cả một vùng phì nhiêu trù phú
Lúa bạt ngàn cây trái xanh um
Ngoài xa hải đảo quanh vùng
Phú Quốc , Côn Ðảo vòng cung bên ngoài

Gia Long sai Văn Thành tổng trấn
Trở về kinh lãnh ấn trung quân
Có con đậu bảng cử nhân
Tên Thuyên là bậc văn nhân có tài

Thơ xướng họa vung tay quá trán

“Ðồn rằng châu Ái lắm nhân tài
Trống chiếu lòng riêng những đợi hoài
Ngọc phát non kinh nào giấu mãi
Ngựa kỳ, ngựa ký mấy người hay
Lan sanh hang thẳm hương ngàn dặm
Phụng đậu gò cao tiếng khắp nơi
Trong núi có ai là Tể tướng
Ra tay giúp đỡ chuyển cơ đồ”

Câu thơ gởi bạn đọc chơi
Nào ngờ thơ ấy đến nơi cung đình

Duyệt vốn ghét Văn Thành từ trước
Nhân dịp này vớ được tâu lên
Xin vua buộc tội trước tiên
Bắt Thành tự vận, đem Thuyên chém đầu

Ðặng Trần Thường bị tâu giấu thuế
Lê Chất nay phát giác việc này
Vua ra lệnh bắt liền tay
Án tuyên tội giảo giết ngay trong tù

Năm Kỷ Mão(1819) mới vừa tháng Chạp
Vua Gia Long truyền khắp đại thần
Ðến bên giường ngự dụ rằng
Thọ mang di chiếu mệnh chung gần kề

Xét Gia Long có bề hào kiệt
Người dù xây được nghiệp tổ tiên
Một tay thống nhất ba miền
Quách thành gây dựng một nền Nam Giao

Nhà Tôn miếu. Sông đào, đập đắp
Sửa cơ đồ xã tắc an dân
Nhưng mà lòng dạ tiểu nhân,
Ðào mồ Nguyễn Huệ, giết oan trung thần

0 nhận xét:

Đăng nhận xét