Đoàn người ấy mọc lên trong sa mạc,
Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trường thành
Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát,
Lũ con hoang bất trị của trời xanh
Chỉ nhắp có hơi men sung sát,
Chỉ say sưa bằng những miếng giao tranh,
Nhằm hướng Phi châu
Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành,
Biển ngập máu còn mang tên Hồng Hải
Cờ phất Âu châu,
Ngựa giẫm tới đâu là xương phơi thịt vãi
Biển đeo tang còn Hắc Hải ghi danh...
Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát
Từ Mông Cổ, Tân Cương đến Ba Tư Bạch Đát,
Trở về Hoa Hạ, Yên kinh
Lũ Thiên triều từng Bắc chiến, Tây chinh
Lẽ nào để một phương không xéo nát!
Trời Nam riêng cõi thanh bình
Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát
Ba chân trời Đại Lục đứng chêng vênh!
Hay đâu: Bắc phương vừa quẫy đuôi kình
Rồng thiên sớm đã cựa mình Nam phương
Trần triều hai Thánh Đế
Hương Đạo một Đại Vương
Hội mở Diên Hồng, đất nước vang rền khí thế,
Hịch truyền Vạn Kiếp, trời mây sáng rực văn chương.
Ý gửi tự muôn dân, lệnh trao từ chín bệ
Thì nắm đầu giặc như chơi, cướp giáo giặc cũng dễ.
Đây cửa sông Hàm Tử, bến đò Chương Dương!
“Nuốt sao Ngưu” chẳng phải việc hoang đường
Nam phương cường, Bắc phương cường!
Máu đào loang sóng Phú Lương mấy lần...
Sét nổ trăm hai ngọn ải Tần,
Giang hoài biên tỉnh lại ra quân
Năm mươi vạn tinh binh ruổi ngựa
Tràn xuống Thăng Long như một khu rừng bốc lửa.
Những “Cây Sắt” con nòi Thiết Mộc Chân!
Giống Hồng Lạc giữa hai đường sanh tử
Trông lên sợi tóc buộc ngàn cân
Chợt đâu đó xé rèm mây quá khứ,
Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử
Rọi về tia mắt tiền nhân:
Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự
Cả thép vô danh cũng rực ánh gươm thần...
Sát cánh vua cùng dân
Chung lòng với tướng quân
“Phá cường địch” cờ ai sáu chữ
Báo hoàng ân là báo quốc ân
Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự
Sông núi nào riêng một họ Trần.
Bình Than lạ nổi phong vân
Một gươm Tiết chế hai lần trao tay.
Lời Đại Vương truyền nín cỏ cây
Ba quân hào khí ngất tầng mây
Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét:
-Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây!
Hán hồ cũng đến chôn thây
Trước sau một khúc sông này mà thôi...
Triều non bạc lên ngôi, giờ lịch sử
Và xuống ngôi, theo lệnh Đại Vương truyền.
Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên
Lấy Đông Hải làm bia nhằm bắn tới
Một ám hiệu Kình nghê vừa mắc lưới,
Thuyền Vương Sư liền quật khởi tranh phong
Tay chèo nổi ngược cơn dông
Tiêng hò “Sát Thát” vang sông ngập bờ.
Duyên Giang một giải,
Lau cũng phất cờ
Mùa xuân gần cuối
Vẫn sóng bay hoa
Ngang trời động sấm tháng ba,
Dọc sông chớp giật, sáng loà gươm đao...
Cũng nơi đây Bạch Đằng Giang một khúc,
Ngô Vương từng chém Hoằng Thao
Gió mây thôi thúc
Quằn quại ba đào
Chợt tưởng niệm máu càng sôi sục,
Tinh thần quyết thắng bốc lên cao.
Thế phản công làm giặc dữ nôn nao
Chúng hoảng hốt vội thu quân về thượng lưu sông Bạch,
Nhưng số phận Hung nô, người phương Nam đã vạch,
Hỡi ơi, bằng giáo sắt cắm ngang sông
Đáy trường giang là cả một bàn chông
Nằm đợi sẵn khi thuỷ triều xuống thấp
Đoàn thuyền giặc lui qua bị xô nghiêng, lật sấp
Bị xé ra từng mảng vở tan thây...
Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây
Quân tiếp ứng của Vương Sư ào xuất trận
Và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
Hiện ra như một vị thần linh
Chớp mắt trên sông bặt sóng kình
Thế là đã nơi này bỏ xác
Lũ con hoang của trời sa mạc
Khắp Á, Âu từng vạn lý trường chinh
Bọn chúng ngờ đâu một sớm cõi Lý Minh
Thân bách chiến bỗng quay về hột cát
Trôi theo sóng cả tiếng tăm nòi Thát Đát
Cả giấc mơ xâm lược chúa Hồ Nguyên...
Ấy ai qua chốn giang biên
Khói đầy khoang giấc sầu miên lạnh lùng
Tiếng kình vang đợt sóng rung
Có nghe chăng có thẹn thùng người xưa?
Riêng ai nước cũ mây mờ
“Thái Bình Diên Yến” câu thơ lệ nhoà
Tháng Giêng kỷ niệm Đống Đa
Sông Đằng kỷ niệm tháng ba mấy lần?
Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân
Cánh tay Đế Nguyễn, Vương Trần nào ai?
1962
0 nhận xét:
Đăng nhận xét