Thứ Hai, 20 tháng 4, 2015

Ðại Việt Sử Thi - Quyển Một

THỜI ÐẠI HỒNG BÀNG (2879 - 257 TCN)
KINH DƯƠNG VƯƠNG - XÍCH QUỶ
LẠC LONG QUÂN
HÙNG VƯƠNG - VĂN LANG
THỜI ÐẠI NHÀ THỤC (257 - 208 TCN)
AN DƯƠNG VƯƠNG ÂU LẠC
THỜI ÐẠI NHÀ TRIỆU (207 - 111 TCN)
ÂU LẠC TRIỆU ÐÀ (VŨ ÐẾ) 207 - 137 TCN ở ngôi 71 năm
VĂN VƯƠNG (137 - 125 TCN) ở ngôi 12 năm
MINH VƯƠNG (125 - 113 TCN) ở ngôi 12 năm
AI VƯƠNG (113 - 112 TCN) ở ngôi 1 năm
THUẬT DƯƠNG VƯƠNG (112 - 111 TCN) ở ngôi 1 năm
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ TÂY HÁN (110 - 39 SCN)
THỜI ÐẠI TRƯNG NỮ VƯƠNG - TRƯNG VƯƠNG 40 - 43 ở ngôi 3 năm
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG HÁN (43 -226)
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG NGÔ 226 - 280
THỜI ÐẠI TRIỆU THỊ TRINH 248 - 248 ở ngôi 1 năm


Dân tộc ta từ ngày dựng nước
Giòng sử thiêng đã được viết ra
Hằng nghìn năm trước trôi qua
Ðất đây đã có quốc gia Việt Thường

THỜI ÐẠI HỒNG BÀNG (2879 - 257 TCN)

Vua Thần Nông vốn giòng Lạc Việt
Cháu : Ðế Minh . Nối nghiệp vua ban (2879 TCN)
Rừng xanh, Ngũ Lĩnh chiêm quan
Phương Nam chọn đất , cưới nàng Vụ Tiên

KINH DƯƠNG VƯƠNG - XÍCH QUỶ

Với mỹ nhân xe duyên kết tóc
Sinh ra đời Lộc Tục hoàng nam
Cắm lều, dựng trại, chiêu dân
Ðặt tên Xích Quỷ giang sơn một vùng

Kinh Dương Vương xưng hùng một cõi
Ðất nước dài một giải mênh mông
Kết hôn con gái Thần Long
Sinh ra Sùng Lãm nối dòng Vương gia

LẠC LONG QUÂN

Lạc Long Quân có bà vợ trẻ
Nàng Âu Cơ diễm lệ thướt tha
Bà sinh một bọc trứng ngà
Một trăm trứng nở thành ra trăm người

Ði theo cha, năm mươi về tới
Bỏ núi rừng ra mãi Biển Ðông
Mẹ cha dòng dõi : Tiên , Rồng
Như rừng với biển khó lòng cùng nhau

HÙNG VƯƠNG - VĂN LANG

Mãi về sau, Long Quân chọn được
Ðất Phong Châu khí vượng kinh đô
Văn Lang lập quốc bấy giờ
Hùng Vương xưng đế, cõi bờ tuần tra

Nước Văn Lang, nhìn ra Ðông Hải
Ðộng Ðình Hồ ở mãi Bắc phương
Bờ Tây : Ba Thục chắn đường
Phía Nam giáp nước Hồ Tôn của Chàm

Chia đất nước ra làm mấy bộ
Lấy Văn Lang làm chỗ trung quân
Việt Thường, Ninh Hải, Cửu Chân
Hoài Hoan, Giao Chỉ, Bình Văn, Dương Tuyền

Miền Vũ Dịch, Chu Diên, Cửu Ðức
Miền Tân Hưng, Phúc Lộc, Vũ Ninh
Ngoài xa Lục Hải mấy thành
Bên trong Lạc Tướng vây quanh bên ngài

Người Bách Việt chen vai sát cánh
Sống quây quần bên nhánh sông Lô
Ðất, rừng trù phú trời cho
Dân chuyên nông nghiệp, rành đồ gốm nung

Nền Văn Hóa Ðông Sơn rực rỡ
Chế Trống Ðồng dùng ở khắp nơi
Khai sinh tục vẽ trên người
Xâm mình để tránh các loài dưới sông

Vào cuối đời Vua Hùng thứ sáu
Phù Ðổng hương có cậu con trai
Lên ba chẳng nói chẳng cười
Nghe tin giặc đến liền đòi sứ vô

Tâu Hoàng Thượng : Xin cho thảo tặc
Sẽ đánh nhừ tan tác giặc Ân
Xin đúc ngựa sắt roi thần
Ðể làm vũ khí đánh quân bạo tàn

Rồi vươn vai, xua tan lũ giặc
Xong quay về đến đất Sóc Sơn
Áo nhung bỏ lại bên đường
Dấu chân Phù Ðổng Thiên Vương nay còn

Ðời Thành Vương, vua sai đem lễ (1062 TCN)
Biếu nhà Chu : Bạch trĩ vũ mao
Mở đầu hai nước bang giao
Chu công đáp lại , xe trao đưa về

Nàng Mị Nương muôn bề sắc sảo
Trai Thục bang kỉnh báo cầu thân
Vua Hùng hỏi ý quần thần
Xét rằng bên Thục mười phân đáng ngờ

Việc hôn nhân chẳng qua là tính
Dùng mưu ngầm kiêm định Văn Lang
Vua Hùng đã biết ý gian
Lựa lời từ chối Thục Vương việc này

Lại treo bảng kén tài phò mã
Ai nhanh chân sẽ gả Mị Nương
Sơn Tinh sớm, được hưởng hương
Chậm chân chàng Thủy đau thương hận thầm

Thủy Tinh thề , mổi năm làm lụt
Ra oai thần mưa trút nước dâng
Thục Vương xấu hổ còn hơn
Dặn cho con cháu quyết tâm trả thù

THỜI ÐẠI NHÀ THỤC (257 - 208 TCN)

AN DƯƠNG VƯƠNG ÂU LẠC

Năm Giáp Thìn (257TCN) bấy giờ Thục Phán
Xâm lấn dần địa phận Văn Lang
Tự xưng hiệu An Dương Vương
Kinh đô đóng ở Việt Thường Phong Khê

Bỏ quốc hiệu Văn Lang ngày trước (257TCN)
Ðổi ra thành Âu Lạc từ đây
Tính theo năm tháng đến rày
Hăm bảy thế kỷ , kế thay vua Hùng

Ðời cuối cùng của giòng Hồng Lạc
Tính ra là mười tám Hùng Vương
Trải bao điền hải tang thương
Ðến nay Thục Phán chiếm luôn riêng mình

Chọn được chỗ lương điền đất tốt
Vua cho người động thổ khởi công
Cổ Loa thành gọi Tư Long
Xoay theo xoắn ốc từ trong ra ngoài

Thành Tư Long xây hoài chẳng được
Thần Kim Quy bày chước trừ ma
Dặn rằng dù có can qua
Linh Quang, Kim Trảo, móng ta cho người

Cổ Loa thành bời bời dũng khí
Tường thì cao, hào rộng lại sâu
Giang sơn Vua Thục từ sau
Linh Giang Nam Bắc đối đầu Trung Hoa

Tần Thủy Hoàng làm vua Trung Quốc
Cho Nhâm Ngao đất được một miền (214TCN)
Triệu Ðà giữ trấn Long Xuyên
Phía Nam Thiên Ðức thuộc quyền Thục Vương

Ðất Nam phương lăm le muốn lấy
Ðã mấy lần thất bại mưu sâu
Sai con Trọng Thủy sang hầu
Làm quan Túc Vệ, bắc cầu thông gia

Chàng Trọng Thủy nghe cha đánh cắp
Lấy nỏ thần bẻ gập làm đôi
Âm thầm để tạm một nơi
Ðánh lừa vua Thục và người chung quanh

Cuộc chiến tranh về sau xảy đến
Cứ tưởng rằng nỏ vẫn chỗ xưa
Ðến khi lâm trận nhà vua
Mới hay kẻ cắp đã đưa đi rồi

Giặc đuổi gấp, bén sau chân ngựa
Tới đường cùng núi Dạ chắn ngang
Thục Vương ngửa mặt mà than
“Nỏ thần vô dụng, Rùa thần cứu ta”

Rùa hiện ra, nhìn vua rối gắt :
“Kẻ ngồi sau là giặc biết không ?”
Mị Châu tình đã nặng lòng
Rắc đường lông ngỗng để chồng tìm theo

Vua quay lại, chém vèo một nhát
Nàng đã ra cái xác không hồn
Từ đây triều Thục mất luôn
Năm mươi năm chẵn chỉ còn vết lông (257-208TCN)

Ðất Phiên Ngung vốn giòng Chân Ðịnh
Vua Triệu Ðà thôn tính Lĩnh Nam
Là người quỷ quyệt, mưu thâm
Ðã từng hỏi thử : “Ta bằng Lưu Bang ?”

THỜI ÐẠI NHÀ TRIỆU (207 - 111 TCN)

ÂU LẠC TRIỆU ÐÀ (VŨ ÐẾ) 207 - 137 TCN ở ngôi 71 năm

Nam Việt Vương Triệu Ðà xưng đế (207TCN)
Năm Mậu Ngọ làm lễ lên ngôi
Giang sơn hùng cứ một thời
Cất quân chiếm lấy đất ngoài Trường Sa

Ðánh Ngô Nhuế chạy xa khỏi đảo
Nơi biên thùy tiến thảo viễn chinh
Quyền uy riêng một triều đình
Dùng cờ Tả đạo xưng quyền đế quân

Triệu Vũ Ðế thâu dần đất nước
Ở phía Nam tới được Việt Thường
Bắc Phương thì đến biên cương
Cùng người Trung Quốc vạch đường phân ranh

Hán Văn Ðế trị bình cường thịnh (179 TCN)
Sai người vào Chân Ðịnh tìm ra
Mộ phần, gia tộc Triệu Ðà
Sửa sang miếu mạo mấy tòa cung lăng

Kể từ đó, hai phương giao hảo
Hán và Ðế xếp giáo lui binh
Bàng dân thiên hạ yên tình
Nước nhà thịnh trị thanh bình cả hai

VĂN VƯƠNG (137 - 125 TCN) ở ngôi 12 năm

Cháu là Hồ, con trai Trọng Thủy
Nối ngôi vua, Vũ Ðế trao cho
Văn Vương học đạo Thuấn Nghiêu
Lấy nhân lễ nghĩa làm điều trị dân

Mân Việt Vương cho quân xâm lấn
Nam Việt xưa thuộc Hán từ lâu
Kiến Nguyên sai tướng vào chầu
Giúp giùm Nam Việt, kết nhau lúc này

Lời giao ước chung tay chống giặc
Giữa hai miền Nam Việt - Trung Hoa
Nếu khi gặp việc can qua
Thì cùng hợp sức để mà cứu nhau

Vì Văn Vương ơn sâu cầu cạnh
Cho nên Vua bàn tính thiệt hơn
Sai người sắm sưả đưa con
Ðem qua nhà Hán để làm con tin

Triệu Văn Vương ngồi trên gần được
Mười hai năm nối nghiệp Triệu Ðà (137 - 125 TCN)
Anh Tề lúc trước cho qua
Nay quay trở lại thay cha trị vì

MINH VƯƠNG 125 - 113 TCN) ở ngôi 12 năm

Mới vừa về, lên ngôi Thiên tử (124 TCN)
Triệu Minh Vương đã phụ lòng tin
Bỏ trưởng, lập thứ lòng riêng
Phong Cù Hoàng hậu gây thêm bất hòa

Mất kỷ cương quốc gia phân hóa
Phép nước suy mối họa gần bên
Vợ thì dâm loạn chuyên quyền (112 TCN)
Con còn bé bỏng đưa lên trị vì

Hán Nguyên Ðỉnh tính bề xâm lược
Sai Ngụy Thần dùng chước gián ly
Khi dụ dỗ, lúc răn đe
Khuyên vua phiên thuộc theo về Bắc Phương

AI VƯƠNG (113 - 112 TCN) ở ngôi 1 năm

Triệu Ai Vương sức hèn tuổi trẻ
Thái hậu là một kẻ trăng hoa
Giữa triều Tể Tướng Lữ Gia
Vì dân can gián nhưng bà chẳng nghe

THUẬT DƯƠNG VƯƠNG (112 - 111 TCN) ở ngôi 1 năm

Lữ Gia vì nước nhà họ Triệu
Vung thước gươm kết liễu Ai Vương
Lập con trưởng của Minh Vương
Tên là Kiến Ðức, Thuật Dương Vương hầu

Không bao lâu, biết vua bị giết
Nguyên Ðỉnh bèn thừa dịp ra tay
Phiên Ngung sắp đặt mấy ngày
Mùa Ðông Canh Ngọ bao vây thành trì (111 TCN)

THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ TÂY HÁN (110 - 39 SCN)

Nước suy vi, dân tình ta thán
Tổ quốc chừ quân Hán cướp đi
Ðất phân chín quận , giặc chia
Ðặt quan cai quản, sau khi giết người

Ðất Lĩnh Nam từ thời lập quốc
Ðến bây giờ lại mất vào tay
Nước ta Bắc thuộc từ rày (110 TCN)
Giặc gây thảm cảnh đọa đày nhân dân

Ðặt đất Nam làm đô hộ phủ
Thạch Ðái là thứ sử Giao Châu
Tích Quang văn hóa thâm sâu
Tiếp theo Tô Ðịnh tham giàu bạo quan (110 TCN - 39)

Ở Giao Chỉ người dân còn nhớ
Công của người Thái Thú Nhâm Diên
Dạy ta cày cấy canh điền
Tỏ lòng tưởng niệm lập đền khói nhang

Thời Tây Hán lầm than khốn đốn
Suốt thời gian trăm bốn chín năm (149)
Bao nhiêu uất hận hờn căm
Thêm tên Tô Ðịnh tham tàn hại dân

THỜI ÐẠI TRƯNG NỮ VƯƠNG - TRƯNG VƯƠNG 40 - 43 ở ngôi 3 năm

Hai Bà Trưng con quan Lạc tướng
Quê Phong Châu thuộc huyện Mê Linh
Trưng Trắc đến tuổi trưởng thành
Cùng chàng Thi Sách, kết tình phu thê

Thù Tô Ðịnh lắm bề hà khắc
Lại giết chàng Thi Sách tướng quân
Tham tàn một lũ bất nhân
Ðọa đày thiên hạ muôn phần đớn đau

Thù Tô Ðịnh không sao kể xiết
Cùng với em thề quyết một lòng
Nam nhi đánh với quần hồng
Ðể coi nhi nữ vẫy vùng thử xem

Bà Trưng Trắc cùng em Trưng Nhị
Phất cờ đào quyết chí trừ gian
Thù chồng không trả nào cam
Nước còn nô lệ chẳng kham lao tù

Vua nhà Hán, khởi từ năm Sửu (41)
Cho Phục Ba sang cứu Phong Châu
Lưu Long, Phù Lạc phong hầu
Ðặt làm phó tướng dẫn đầu tiến binh

Ở Mê Linh, cùng dân cả nước
Ðể sẵn sàng chặn bước xâm lăng
Cửu Châu , Hợp Phố , Nhật Nam
Thanh Trì , Nam Hải , Lĩnh Nam theo về

Lệnh phát đi, đánh nhanh rút gọn
Dụ giặc vào chia mỏng địch quân
Kẻ thù như nước đang dâng
Ào ào tiến đến đã gần Tây Nhai

Trước thế giặc như loài lang sói
Sợ quân mình khó nổi đánh nhau
Vua bà ra lệnh lùi sâu
Vào vùng cứ địa, đào hào cắm chông

Trận khởi đầu giết xong Hàn Vũ
Giết tên này ở chỗ Tây Nhai
Trăm quân giặc chết trận này
Khiến cho Mã Viện phải thay ý đồ

Vượt sông Hồng thừa cơ đánh úp
Lịnh Hai Bà : Tạm chớ giao tranh
Bảo toàn lực lượng để dành
Cấm Khê đợi lịnh, đánh nhanh bất kỳ

Giặc biết ý cho đi từng đội
Lấn chiếm dần không vội ra quân
Binh ta đánh chậm, cầm chân
Ðiều quân đại chiến ở gần Hát Giang

Dưới lọng vàng, trên đầu voi chiến
Bóng hai bà ẩn hiện trong sương
Cờ đào phấp phới hiên ngang
Quần thoa nhi nữ mỡ đường tiến quân

Sau một trận giao tranh ác liệt
Sa cơ đành tuẫn tiết hy sinh
Hát Giang nước biếc gieo mình
Ơn đền nợ nước, tình riêng với chồng

Hai Bà Trưng một lòng với nước
Vì cơ đồ vị quốc vong thân
Trăm năm nước chảy đá mòn
Vẫn còn in lại dấu chân vua Bà

Năm Quý Mão hai bà tuẫn tiết
Trước mười năm ở tít Trung Ðông (43)
Chiên con là chúa Hài Ðồng
Chết trên thánh giá vì lòng độ nhân

Rút về Nam, Ðô Dương vào núi
Cố tìm đường đánh đuổi Hán quân
Nghĩa binh Chu Bá theo chân
Mấy năm kháng chiến yếu dần tiêu hao

“Cột Ðồng gãy thì Giao Châu diệt”
Là lời thề tướng giặc ghi đây
Phục Ba đúc, dựng cột này
Cổ Lâm dấu tích đến nay khó tìm

THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG HÁN (43 -226)

Quân Ðông Hán gọng kềm siết chặt
Trị dân Nam mặc sức giam cầm
Tha hồ vơ vét, tham lam
Cướp theo của cải bạc vàng mang đi

Những Thái Thú người Di, người Hán
Rất nhiều tên tán tận lương tâm
Làm quan đâu được vài năm
Vén thu lông trĩ, kỳ nam đem về

Năm Canh Tuất (190) Man Di Nam Chiếu
Quy tụ người ở đạo Nhật Nam
Cũng như dân ở Tượng Lâm
Lập nên nước mới là Chàm hiện nay

Nước Lâm Ấp tôn ngay thủ lĩnh
Là Khu Liên thống lĩnh toàn dân
Về sau đổi lại Hoàng Vương
Ðất đai khai phá mở mang xuống dần

Hán Trung Bình vào năm Giáp Tý (184)
Giao Lý Tiến quản lý Giao Châu
Rồi sai Sĩ Nhiếp về sau
Phong chức Thái Thú cầm đầu từ đây

THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG NGÔ 226 - 280

Sĩ Nhiếp người Vấn Dương, nước Lỗ
Cuối năm Dần đầu với Ngô Vương
Tôn Quyền cho gửi thư sang
Giữ nguyên chức tước, phong hàm Tướng Quân

Quân xâm lược dần dần áp đặt
Lấy luật Tàu ép bắt dân ta
Ðổi thay phong tục đã qua
Lâu ngày đồng hóa, dần dà diệt luôn

Năm Bính Dần nữ vương Triệu Ẩu (246)
Dấy dân quân chiến đấu diệt Ngô
Núi Nưa tụ nghĩa dựng cờ
Giết viên thứ sử nhà Ngô đương thời

THỜI ÐẠI TRIỆU THỊ TRINH 248 - 248 ở ngôi 1 năm

Triệu Thị Trinh là người nhan sắc
Cùng anh là Quốc Ðạt cầm quân
Lệnh Bà sức khỏe đang xuân
Cỡi đầu voi dữ diệt quân bạo tàn

Trong Núi Nưa, nuôi quân dạy tướng
Cờ mao dùng khiển tướng điều binh
Khiến cho giặc phải rùng mình
Tôn Quyền biệt phái sai Hành Dương sang

Triệu Trinh nương linh hồn chiến đấu
Trước ba quân tả hữu giáp vàng
Dân tôn “Lệ Hải Bà Vương”
Tên Bà nghe đến kinh hoàng giặc Ngô

Chúa Ðông Ngô mưu mô quỷ quyệt
Nhưng lệnh bà quyết diệt ngoại bang
Ðánh cho Lục Dận kinh hoàng
Ðánh cho quân giặc hết đường rút lui

Ðất Mỹ Hóa là nơi tử chiến
Giặc xếp hàng Phú Ðiếu chôn thây
Ngô vương chiến thuật đổi ngay
Dằng dai phản kích đêm ngày cầm chân

Lũ Giặc Ngô lâu dần trụ vững
Chiếm từ từ dân chúng chung quanh
Bà Triệu rút bỏ khỏi thành
Nghĩa quân kiệt sức nên đành bại vong (248)

Dòng sông Lương binh không thấy bóng
Dáng Nhụy Kiều nữ tướng năm nao
Phất phơ một ngọn cờ đào
Sơn hà phút chốc lọt vào ngoại bang

0 nhận xét:

Đăng nhận xét