Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

Đào nguyên hành - Vương Duy

桃 源 行

漁 舟 逐 水 愛 山 春 
兩 岸 桃 花 夾 古 津 
坐 看 紅 樹 不 知 遠 
行 盡 青 溪 不 見 人 
山 口 潛 行 始 隈 隩 
山 開 曠 望 旋 平 陸 
遙 看 一 處 攢 雲 樹 
近 入 千 家 散 花 竹 
樵 客 初 傳 漢 姓 名 
居 人 未 改 秦 衣 服 
居 人 共 住 武 陵 源 
還 從 物 外 起 田 園 
月 明 松 下 房 櫳 靜 
日 出 雲 中 雞 犬 喧 
驚 聞 俗 客 爭 來 集 
競 引 還 家 問 都 邑 
平 明 閭 巷 掃 花 開 
薄 暮 漁 樵 乘 水 入 
初 因 避 地 去 人 間 
及 至 成 仙 遂 不 還 
峽 裡 誰 知 有 人 事 
世 中 遙 望 空 雲 山 
不 疑 靈 境 難 聞 見 
塵 心 未 盡 思 鄉 縣 
出 洞 無 論 隔 山 水 
辭 家 終 擬 長 游 衍 
自 謂 經 過 舊 不 迷 
安 知 峰 壑 今 來 變 
當 時 只 記 入 山 深 
青 溪 幾 曲 到 雲 林 
春 來 遍 是 桃 花 水 
不 辨 仙 源 何 處 尋

王 維

ĐÀO NGUYÊN HÀNH

Ngư châu trục thủy ái sơn xuân
Lưỡng ngạn đào hoa giáp cổ tân
Tọa khán hồng trụ bất tri viễn
Hành tận thanh khê bất kiến nhân
Sơn khẩu tiệm thành thỉ ôi áo
Sơn khai khoáng vọng triền bình lục
Diêu khán nhất xứ toản vân thụ
Cận nhập thiên gia tán hoa trúc
Tiều khách sơ truyền Hán tính danh
Cư nhân vị cải Tần y phục
Cư nhân cộng trú Võ Lăng nguyên
Hoàn tùng vật ngoại khởi điền viên
Nguyệt minh tùng hạ phòng long tịnh
Nhật xuất vân trung kê khuyển huyên
Kinh văn tục khách tranh lai tập
Cạnh dẫn hoàn gia vấn đô ấp
Bình minh lư hạng tảo hoa khai
Bạc mộ ngư tiều thừa thủy nhập
Sơ nhân ti địa khứ nhân gian
Cánh văn thành tiên toại bất hoàn
Giáp lý thùy tri hữu nhân sự
Thế trung diêu vọng không vân sơn
Bất nghi linh cảnh nan văn kiến
Trần tâm vị tận tư hương huyện
Xuất động vô luận cách sơn thủy
Từ gia chung nghỉ trường du diễn
Tự vi kinh quá cựu bất mê
An tri phong hát kim lai biến
Đương thời chỉ kí nhập sơn thâm
Thanh khê kỉ độ đáo vân lâm
Xuân lai biến thị Đào hoa thủy
Bất biện tiên nguyên hà xứ tầm

Vương Duy


Dịch thơ : Vũ Thế Ngọc

Thuyền câu theo suối luyến non xuân 
Đào nở đầy bờ chật bến xưa 
Ngồi ngắm cây hồng xa chẳng biết 
Tận nguồn suối bạc người không qua 

Sơn động chậm trôi dòng khúc khủyu 
Núi hang rộng mở đất bình nguyên 
Xa ngắm một miền cây khói tỏa 
Gần xem ngàn nóc trúc hoa chen 
Khách Tiều vừa đáp tên thời Hán 
Dân chúng còn nguyên y phục Tần 

Võ Lăng xưa vốn cùng chung ở 
Từ giả vào đây khai ruộng vườn 
Trăng tỏ thông ngàn phòng ốc tĩnh 
Trời quang mây tịh chó gà huyên 

Kinh động nghe tin tục khách đến 
Dẫn về tranh hỏi chuyện làng quê 
Bình minh đường phố lùa hoa rụng 
Chiều thẳm ngư tiều theo suối về 

Trước vì lánh nạn trốn nhân gian, 
Nghe nói thành tiên không trở ra 
Nhân sự láng giềng ai biết đến 
Giữa đời nhìn ngắm núi mây xa 

Nào biết cảnh linh khó nói nghe 
Lòng trần chưa dứt nhớ quê nhà 
Rời động không màng sông núi cách 
Về rồi sắp đặt chuyến đi xa 
Tự cho từng trải xưa không mê 
Nào biết núi rừng nay khác ra 

Chỉ nhớ lúc xưa vào núi thẳm 
Dòng xanh bao thưở vượt rừng mây 
Xuân về đây đó hoa và suối 
Nhưng suối tiên đâu tìm chốn nào? 

Dịch thơ : Anh Nguyên

Núi xuân, theo nước thuyền bơi, 
Hai bờ đào nở tận nơi bến đò. 
Ngắm hoa, đường xá chẳng lo, 
Thanh-Khê đi tới, trước đò thấy ai!... 

Quanh co vào núi đoạn dài, 
Bỗng đâu núi mở, đất lài phẳng phiu. 
Xa nhìn, cây nấp mây chiều, 
Gần, nghìn nhà lẫn vào nhiều trúc, hoa. 

Truyền tiều, gốc Hán sanh ra, 
Ở lâu, chưa đổi được ra áo Tần. 
Vũ-Lăng vốn gốc là dân, 
Bỏ theo ngoại vật, sống gần cỏ cây. 

Trăng soi, phòng bóng thông đầy, 
Hừng đông, chó sủa lẫn bầy gà kêu. 
Người nghe khách tục, lại nhiều, 
Dẫn về, tranh hỏi những điều quê xưa. 

Quét hoa sáng sớm rụng bừa, 
Ngư tiều theo nước, chiều vừa về đây. 
Xưa vào lánh nạn chốn này, 
Cảnh tiên, như gặp nên nay không về. 

Có người trong núi, ai ngờ, 
Ngoài đời chỉ thấy mây mờ núi cao. 
Cảnh u linh dễ thấy sao! 
Nhưng quê sao vẫn nao nao lòng trần. 

Động, rời, sông, núi, qua dần... 
Giã nhà, lại tính một lần chơi xa. 
Đinh ninh đến chốn đã qua, 
Nào hay khe, núi, khác xa bấy giờ. 

Núi sâu, vượt, nhớ lờ mờ, 
Thanh-Khê bao độ cách bờ rừng mây? 
Xuân, đào ven suối nở đầy, 
Nguồn tiên, khó nhận, tìm nay chốn nào?!... 

Dịch thơ : Viên Thu

Thuyền câu xuân lượn núi xuôi dòng, 
Hai ngạn đào xưa rực rỡ bông. 
Ngồi ngắm rừng hồng,xa bất tận, 
Đi vào suối biếc,bóng người không ! 

Cửa động lững lờ dòng nước uốn, 
Triền non thoáng mở cánh đồng xanh. 
Xa trông một cõi rừng mây phủ, 
Gần ngắm ngàn nhà bóng trúc quanh. 
Tiều khách vẫn còn tên Hán cũ, 
Người quê mãi giữ áo Tần thanh. 

Vũ lăng ngày trước cùng chung sống, 
Khai phá ruộng nương mới chuyển vào. 
Tùng biếc,trăng thanh nhà cửa tịnh, 
Mây nhàn,trời rạng chó gà xao. 

Khách trần nghe thấy từ xa đến, 
Dẫn dắt qua nhà hỏi chuyện quê. 
Sáng sớm phố phường hoa rạng nở, 
Chiều sang tiều mục suối thâu về. 

Phải xưa lánh nạn nơi nhân thế, 
Nghe nói thành tiên chẳng vãng lai. 
Trong xóm còn ai tường mọi chuyện ? 
Cõi trần có kẻ vọng ngàn mây ! 

Chốn linh chẳng thể còn nghe thấy, 
Chưa dứt lòng trần,nhớ cố hương. 
Rời động,núi sông quên trắc trở 
Từ nhà,lãng tử mộng còn vương. 
Đã rành chốn cũ đâu mê muội, 
Nào biết núi non đã bất thường. 

Còn nhớ khi xưa vào núi thẳm, 
Suối xanh bao độ quá mây rừng. 
Xuân về bát ngát Đào hoa suối, 
Tiên cảnh tìm đâu giữa cõi trần. 

Dịch thơ : Nguyễn Minh

Yêu núi xuân thuyền chài đi mãi 
Hai bên bờ bến cũ đào trôi 
Ngắm hoa chẳng quản xa xôi 
Qua Thanh khê chợt thấy người xa xa 

Hẻm núi bắt đầu quanh co khúc 
Núi mở ra thấy một bình nguyên 
Cây xanh, mây khói ở trên 
Lại gần ngàn nóc gia liền trúc hoa 

Người hái củi nói là người Hán 
Dân ở đây chưa hoán áo Tần 
Quây quần bên suối Vũ Lăng 
Không màng ngoài cõi, siêng năng ruộng đồng 

Nhà nhà tĩnh dưới thông, trăng tỏ 
Mặt trời lên gà chó xôn xao 
Ngạc nhiên khách tục lạc vào 
Cư dân cư kéo đến ồn ào hỏi thăm 

Tang tảng sáng nhà gom hoa rụng 
Chiều dân chài, hái củi trở về 
Ban đầu lánh nạn dời đi 
Gặp tiên nên cứ ở lì tới nay 

Ai mà biết nơi đây người ở 
Nhìn cõi trần chỉ có mây mờ 
Chốn linh khó thấy khó nghe 
Lòng trần chưa dứt, nhớ về quê xưa 

Ra khỏi động qua bao sông núi 
Lại rời nhà tính tới đi xa 
Đinh ninh là nhớ đường về 
Nào ngờ nay đã sơn khê khác rồi 

Lúc đó nhớ vào sâu trong núi 
Qua Thanh Khê không thấy động đâu 
Xuân về hoa rụng trôi đầy 
Suối tiên chẳng biết tìm nay ngả nào ? 

Witter Bynner 

A fisherman is drifting, enjoying the spring mountains, 
And the peach-trees on both banks lead him to an ancient sourcẹ 
Watching the fresh-coloured trees, he never thinks of distance 
Till he comes to the end of the blue stream and suđenly-strange men! 

It's a cave-with a mouth so narrow that he has to crawl through; 
But then it opens wide again on a broad and level path -- 
And far beyond he faces clouds crowning a reach of trees, 
And thousands of houses shadowed round with flowers and bamboos.... 

Woodsmen tell him their names in the ancient speech of Han; 
And clothes of the Qin Dynasty are worn by all these people 
Living on the uplands, above the Wuling River, 
On farms and in gardens that are like a world apart, 

Their dwellings at peace under pines in the clear moon, 
Until sunrise fills the low sky with crowing and barking. 
...At news of a stranger the people all assemble, 
And each of them invites him home and asks him where he was born. 

Alleys and paths are cleared for him of petals in the morning, 
And fishermen and farmers bring him their loads at dusk.... 
They had left the world long ago, they had come here seeking refuge; 
They have lived like angels ever since, blessedly far away, 

No one in the cave knowing anything outside, 
Outsiders viewing only empty mountains and thick clouds. 
...The fisherman, unaware of his great good fortune, 
Begins to think of country, of home, of worldly ties, 

Finds his way out of the cave again, past mountains and past rivers, 
Intending some time to return, when he has told his kin. 
He studies every step he takes, fixes it well in mind, 
And forgets that cliffs and peaks may vary their appearancẹ 

...It is certain that to enter through the deepness of the mountain, 
A green river leads you, into a misty wood. 
But now, with spring-floods everywhere and floating peachpetals-- 
Which is the way to go, to find that hiđen sourcẻ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét