Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

Lão tướng hành - Vương Duy

老 將 行 

少 年 十 五 二 十 時 
步 行 奪 得 胡 馬 騎 
射 殺 山 中 白 額 虎 
肯 數 鄴 下 黃 鬚 兒 
一 身 轉 戰 三 千 里 
一 劍 曾 當 百 萬 師 
漢 兵 奮 迅 如 霹 靂 
虜 騎 崩 騰 畏 蒺 藜 
衛 青 不 敗 由 天 幸 
李 廣 無 功 緣 數 奇 
自 從 棄 置 便 衰 朽 
世 事 蹉 跎 成 白 首 
昔 時 飛 箭 無 全 目 
今 日 垂 楊 生 左 肘 
路 旁 時 賣 故 侯 瓜 
門 前 學 種 先 生 柳 
蒼 茫 古 木 連 窮 巷 
寥 落 寒 山 對 虛 牖 
誓 令 疏 勒 出 飛 泉 
不 似 潁 川 空 使 酒 
賀 蘭 山 下 陣 如 雲 
羽 檄 交 馳 日 夕 聞 
節 使 三 河 募 年 少 
詔 書 五 道 出 將 軍 
試 拂 鐵 衣 如 雪 色 
聊 持 寶 劍 動 星 文 
願 得 燕 弓 射 大 將 
恥 令 越 甲 鳴 吾 君 
莫 嫌 舊 日 雲 中 守 
猶 堪 一 戰 取 功 勳

王 維

LÃO TƯỚNG HÀNH

Thiếu niên thập ngũ nhị thập thời 
Bộ hành đoạn đắc hồ mã kỵ 
Xạ sát sơn trung bạch ngạch hổ 
Khẳng số nghiệp hạ hoàng tu nhi 
Nhất thân chuyển chiến tam thiên lý 
Nhất kiếm tầng đương bách vạn sư 
Hán binh phấn tấn như tích lịch 
Lỗ kỵ băng đằng uý tật lê 
Vệ thanh bất bại do thiên hạnh 
Lý quảng vô công duyên số kỳ
Tự tùng khí trí tiện suy hủ 
Thế sự tha đà thành bạch thủ 
Tích thời phi tiễn vô toàn mục 
Kim nhật thuỳ dương sanh tả trửu 
Lộ bàng thời mại cố hầu qua 
Môn tiền học chủng tiên sanh liễu 
Thương mang cổ mộc liên cùng hạng 
Liêu lạc hàn sơn đối hư dũ 
Thệ lệnh sơ lặc xuất phi tuyền 
Bất tự dĩnh xuyên không sứ tửu 
Hạ lan sơn hạ trận như vân 
Vũ hịch giao khu nhật tịch văn 
Tiết sứ tam hà mộ niên thiếu 
Chiếu thư ngũ đạo xuất tướng quân 
Thí phất thiết y như tuyết sắc 
Liêu trì bảo kiếm động tinh văn 
Nguyện đắc yên cung xạ đại tướng 
Sỉ lệnh việt giáp minh ngô quân 
Mạc hiềm cựu nhật vân trung thủ 
Do kham nhất chiến thủ công huân

Vương Duy

Chú thích : 

1/ Hồ, tên bộ tộc ở phía tây bắc nước Tàu, thường quấy nhiễu biên cảnh. 
2/ Nghiệp Hạ, tên đất, nay ở phía tây nam huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam. 
3/ Hoàng tu nhi: dẫn tích Tào Chương là danh tướng nước Ngụy thời Tam Quốc có râu vàng; cha là Tào Tháo (thừa tướng nước Nguỵ) gọi Chương là “hoàng tu nhi” (thằng bé râu vàng). 
4/ Vệ Thanh, là danh tướng đời Hán, bảy lần xuất quân đánh Hung Nô, chém rơi năm vạn thủ cấp giặc, chưa từng nếm mùi chiến bại. 
6/ Lý Quảng, cũng là danh tướng đời Hán. Khi theo Vệ Thanh đánh Hung Nô, các tướng có công đều được phong hầu, duy có ông bị thua trong lần đó, nên chẳng được gì cả. 
7/ Cố hầu qua: Dẫn tích Triệu Bình người đời Tần được phong tước đông lăng hầu. Khi Tần mất về Hán, ông về làm dân nhưng người ta vẫn gọi ông là Cố hầu; ông trồng dưa thu hoạch tốt, người ta gọi dưa ông trồng là Cố hầu qua. 
8/ tiên sinh liễu: dẫn tích Đào Tiềm, danh sĩ đời Tấn, từ quan về ở ẩn, trước nhà trồng năm cây liễu, lấy hiệu là Ngũ liễu tiên sinh. 
9/ Sơ Lặc, tên nước ở Tây vực. Thời Đông Hán, Cảnh Cung đóng quân nơi đây chống Hung Nô xâm phạm. Khi địch đến, ông dùng mẹo làm bộ khấn vái khiến suối khô thành đầy nước. Quân thám báo về tâu vua Hung Nô. Hung Nô cho rằng Cảnh Cung có thần giúp bèn rút quân.
10/ Dĩnh Xuyên, tên đất, Quán Phù người đời Hán làm quan nơi đây, chỉ tỏ ra cương trực khi uống rượu say. 11/ Hạ Lan sơn, tên núi, nay tại huyện Vệ Thành trong khu tự trị Hồi tộc Ninh Hạ, là nơi thường có giao tranh. 12/ Tam Hà, tên đất, gồm Hà Nội, Hà Đông và Hà Nam. 
13/ Yên, tên nước cũ, nay trong tỉnh Hà Bắc. 
14/ Việt, tên nước cũ, nay trong tỉnh Chiết Giang. 
15/ Vân Trung, tên đất, nay trong huyện Đại Đồng tỉnh Thiểm Tây. Đời Hán Văn đế, Ngụy Thượng làm thái thú nơi đây. Hung Nô tấn công ông đẩy lui. Khi báo chiến công, ông báo thiếu 6 thủ cấp giặc bị giết nên bị bãi chức. Sau nhờ Phùng Đường tâu xin, ông được phục chức. 
16/ Bài chia ba khúc: khúc đầu tả lúc còn thanh xuân, khúc giữa tả lúc bị phế bỏ và khúc cuối là mộng ước khi tuổi già. 

Dịch nghĩa :

Lúc trẻ từ mười lăm tới hai mươi, 
chạy bộ cũng lấy được ngựa của giặc Hồ. 
Vào núi bắn chết cọp trán trắng, 
không thua gì [danh tướng] “Hoàng tu nhi” ở Nghiệp Hạ [thời Tam Quốc]. 

Tấm thân đã trải chinh chiến ba ngàn dặm, 
với một thanh kiếm địch nổi trăm vạn binh mã. 
Quân nhà Hán tiến mau như sấm sét, 
kỵ binh địch bỏ chạy vì kinh sợ hầm chông [của ta]. 

[Danh tướng] Vệ Thanh chưa từng chiến bại là có trời giúp, 
Lý Quảng [tài giỏi] không được thưởng công vì số phận kỳ lạ. 
Từ khi bị phế bỏ trở nên suy tàn, 
chuyện đời chưa được như ý đã bạc đầu. 

Ngày trước bắn cung không cần nhắm kỹ [cũng trúng], 
bây giờ khuỷu tay trái [yếu như] cành liễu. 
Có lúc đứng bên đường bán dưa Cố hầu qua, 
trước nhà cũng trồng liễu như [Ngũ liễu] tiên sinh. 

Sống trong ngõ hẻm nơi hoang vu đầy cây già, 
trôi dạt tới sườn núi lạnh ngắm hư không qua cửa sổ. 
[Nay ông mơ có thể] khấn cho suối khô vọt nước ở Sơ Lặc, 
làm quan ở Dĩnh Xuyên không cần uống rượu [vẫn cương trực]. 

Đất Hạ Lan vốn thường chinh chiến, 
nghe nói ngựa chạy quân thư ngày đêm. 
Các tiết độ sứ ở Tam Hà đã tuyển quân trai tráng xong, 
vua hạ chiếu cho năm đạo quân xuất chiến do ông làm tướng quân. 

Thử phủi tấm chiến y trắng như tuyết, 
hãy cầm bảo kiếm vỏ khắc thất tinh múa thử. 
Muốn có thêm cung cứng xứ Yên để bắn đại tướng [địch], 
cảm thấy xấu hổ khi giáp binh xứ Việt làm rộn vua ta. 

Không quan ngại chuyện cũ của thái thú Vân Trung, 
vẫn mong có ngày một trận [thắng] để lập công trạng. 

Dịch thơ : Viên Thu - Nguyễn Minh 

Mười lăm tuổi đến hai mươi hề, 
Chạy bộ tóm ngay Hồ ngựa về. 
Trong núi bắn tiêu cọp trán trắng, 
Thua gì Nghiệp Hạ “Hoàng tu nhi”. 

Ba ngàn dặm trải cuộc trường chinh, 
Một kiếm đương trăm vạn lính binh. 
Quân Hán ta nhanh như sấm sét, 
Kỵ binh giặc chạy sợ chông mình. 

Vệ Thanh chưa bại, thực ơn trời, 
Lý Quảng mất công, nghĩ lạ thời. 
Từ bị rẫy ruồng, suy sụp hẳn, 
Chuyện đời chưa toại, bạc đầu đây. 

Xưa nhìn chi kỹ, lúc giương cung, 
Nay khuỷu trái như nhánh liễu cùn. 
Bên lộ từng buôn dưa Lão cố, 
Trước sân học chủng liễu Đào ông. 

Sống trong ngõ hẻm, hoang cây cối, 
Lạc giữa núi hàn, mộng sắc không : 
Sơ Lặc khẩn cầu suối tận chảy, 
Dĩnh Xuyên quan trấn, rượu chi hòng. 

Hạ Lan chiến trận vốn cao trào, 
Ngựa tải quân thư sớm tối mau. 
Tiết sứ Tam Hà chiêu lính trẻ, 
Vua phong ta tướng xuất quân đầu. 

Thử lau áo chiến ngời màu tuyết, 
Hãy múa gươm vàng chạm ánh sao. 
Muốn được cung Yên diệt đại tướng, 
Thẹn do quân Việt quấy vua nhiều. 

Ngại gì chuyện thái thú Vân Trung, 
Một trận mình công trạng lẫy lừng. 

Dịch thơ : Nguyễn Phước Hậu 

Mười lăm hai chục thuở xuân nồng 
bắt ngựa Hồ, chân chạy cũng xong. 
Cọp trán trắng buông tên bắn chết 
Kém chi Nghiệp Hạ tướng Tào Chương. 

Một thân chinh chiến ba ngàn dặm 
Từng địch vạn binh chỉ một gươm. 
Quân Hán tiến công nhanh sấm sét 
Kỵ giặc chạy về sợ đạp chông. 

Toàn thắng Vệ Thanh trời trợ giúp 
Lạ lùng Lý Quảng chẳng ghi công. 
Từ khi khí lực đà suy thoái 
Chuyện chẳng thành đầu đã trắng bông. 

Trước bắn cung không cần nhắm kỹ 
Nay tay trái yếu tựa thùy dương. 
Liễu Đào cũng học trồng bên cửa 
Dưa Cố có khi bán cạnh đường. 

Hoang dại hẻm cùng đầy cổ thụ 
Nổi trôi núi lạnh ngắm hư không. 
Suối Sơ Lặc cạn cầu đầy nước 
Quan Dĩnh Xuyên chê rượu chẳng dùng. 

Đất Hạ Lan thường luôn chiến trận 
Thư tín ngày đêm ngựa chẳng ngừng. 
Quan Tam Hà tuyển binh trai tráng 
Xuất quân năm đạo tướng vua phong. 

Thử phủi chiến bào như tuyết trắng 
Múa thanh kiếm vỏ khắc sao băng. 
Muốn trừ đại tướng mong cung cứng 
Quân Việt quấy vua ta thẹn thùng. 

Chuyện cũ Vân Trung không đáng ngại 
Vẫn mong một trận để thi hùng. 

Witter Bynner :

When he was a youth of fifteen or twenty, 
He chased a wild horse, he caught him and rode him, 
He shot the white-browed mountain tiger, 
He defied the yellow-bristled Horseman of Yẹ 

Fighting single-handed for a thousand miles, 
With his naked dagger he could hold a multitudẹ 
...Granted that the troops of China were as swift as heaven's thunder 
And that Tartar soldiers perished in pitfalls fanged with iron, 

General Wei Qing's victory was only a thing of chancẹ 
And General Li Guang's thwarted effort was his fate, not his fault. 
Since this man's retirement he is looking old and worn: 
Experience of the world has hastened his white hairs. 

Though once his quick dart never missed the right eye of a bird, 
Now knotted veins and tendons make his left arm like an osier. 
He is sometimes at the road-side selling melons from his garden, 
He is sometimes planting willows round his hermitagẹ 

His lonely lane is shut away by a dense grove, 
His vacant window looks upon the far cold mountains 
But, if he prayed, the waters would come gushing for his men 
And never would he wanton his cause away with winẹ 

...War-clouds are spreading, under the Helan Range; 
Back and forth, day and night, go feathered messages; 
In the three River Provinces, the governors call young men -- 
And five imperial edicts have summoned the old general. 

So he dusts his iron coat and shines it like snow- 
Waves his dagger from its jade hilt in a dance of starry steel. 
He is ready with his strong northern bow to smite the Tartar chieftain -- 
That never a foreign war-dress may affront the Emperor. 

...There once was an aged Prefect, forgotten and far away, 
Who still could manage triumph with a single strokẹ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét