LÊ THÁI TÔNG HOÀNG ÐẾ (1433- 1442)
LÊ NHÂN TÔNG HOÀNG ÐẾ (1442- 1459)
LÊ NGHI DÂN HOÀNG ÐẾ (1459- 1460)
LÊ THÁNH TÔNG HOÀNG ÐẾ (1460- 1497)
LÊ NHÂN TÔNG HOÀNG ÐẾ (1442- 1459)
LÊ NGHI DÂN HOÀNG ÐẾ (1459- 1460)
LÊ THÁNH TÔNG HOÀNG ÐẾ (1460- 1497)
LÊ THÁI TÔNG HOÀNG ÐẾ (1433- 1442)
Thái tử Long, được lên thế chỗ (1433)
Tôn cha là Thế Tổ nhà Lê
Thiệu Bình đổi lại niên ghi
Sai quan Nguyễn Trãi soạn bia, dựng đền
Lê Thái Tông chiêu hiền đãi sĩ
Chọn người tài chiếu chỉ tước phong
Tổ chức khảo hạch thật đông
Ngàn người thi đổ ở trong thời mình
Quốc Tử Giám về kinh để học
Còn bậc ba sách đọc huyện châu
Ðịnh ra ngạch thuế bãi dâu
Lập ra luật ruộng, đầm, ao rõ ràng
Trên ngai vàng vua còn non nớt
Ðại tư đồ Lê Sát ra oai
Hạch quan sách lại hằng ngày
Những điều nhân nghĩa không bày cho vua
Sát quyền uy không thua vương đế
Giết Nhân Chú , bãi phế Ư Ðài
Ðày quan Cầm Hổ ra ngoài
Truất quyền Trinh, Khả, hiền tài ghét ghen
Vua ham chơi thường xuyên bỏ học
Ngự sử quan dở khóc dở cười
Họp bàn viết sớ dâng Người
Khuyên vua chớ có buông lơi tập rèn
Ðã ba năm, tuổi lên mười bốn
Suốt cả đời ở chốn lầu son
May thay tư chất khôn ngoan
Cho nên hiểu ý các quan muốn gì
Sát chuyên quyền lắm khi sàm tấu
Tiếng ong ve đã thấu tai vua
Thái Tông xuống chiếu giao cho
Hình quan xét hỏi thiệt hư thế nào
Bãi chức đại tư đồ Lê Sát (1437)
Ngọc Dao hoàng hậu phế đi
Phong cho Nhật Lệ Chiêu Nghi
Ðược làm chính thức Huệ Phi của người
Vua xuống chiếu truyền sai dẹp loạn
Lại thân chinh quyết đoán ra quân
Ðánh dân thiểu số họ Cầm
Thuận Châu, Thu Vật đầu hàng năm sau (1440)
Phế Nghi Dân, rồi giao con thứ
Húy tên là thái tử Bang Cơ (1441)
Thừa ngôi thái tử bấy giờ
Tạo mầm bạo loạn kể từ hôm nay
Vua rất trẻ tuổi đời mười sáu
Ðã là cha mấy cậu con trai
Hàng trăm cung nữ trong tay
Ngập chìm tửu sắc, ngày ngày hoang dâm
Nguyễn thị Lộ phong hàm học sĩ
Là một người kiều nữ trong cung
Ngày đêm hầu hạ ở cùng
Thái Tông suồng sã lung tung với nàng
Lộ vợ thứ đại thần Nguyễn Trãi
Vừa đẹp người lại giỏi văn chương
Nhân vua đang ở Quy Dương
Ghé thăm Nguyễn Trãi tại vườn Lệ Chi
Vua và Lộ cùng nhau trò chuyện
Lại hàn huyên cho đến suốt đêm
Ðang vui sao bỗng tự nhiên
Một cơn đột quỵ chết liền trong tay
Lộ kinh hoàng cố lay vua dậy
Trâm cài đầu chẳng thấy hồi sinh
Xác vua đang ở bên mình
Long lanh giọt lệ ngấn quanh mắt nàng
Xác vua quàng ở nhà Nguyễn Trãi
Ðưa về kinh mất phải hai ngày
Vào cung rồi phát tang ngay
Khiến cho trăm họ tiếng rày tiếng ve
Mười hai hôm , sau khi biến cố
Ghép Thị Lộ vào tội giết vua
Cả dòng Nguyễn Trãi bị đưa
Tru di tam tộc không chừa một ai
LÊ NHÂN TÔNG HOÀNG ÐẾ (1442- 1459)
Lập Bang Cơ lên ngai hoàng đế(1442)
Hoàng tử là thứ kế con vua
Một người sáng suốt có thừa
Tiếc thay chết trẻ khi chưa truởng thành
Việc triều chính thân hành thái hậu
Buông rèm che nghe tấu việc triều
Lê Khắc Phục , được đi theo
Lại thêm Thụ, Khả góp điều phò vua
Hậu đàn bà mắt lòa chẳng thấy(1449)
Bọn đại thần che đậy cho nhau
Chỉ lo thu vén đem vào(1448)
Kết bè kết đảng, kết giao hoạn thần
Bọn đại quan một đoàn xiểm nịnh
Ghen hiền tài, ghét chính, tà gian
Bên ngoài xã tắc suy tàn
Cậy quyền, ỷ thế làm càng hiếp dân
Nạn hối lộ đã dần thành tật
Việc bán quan mua tước thường xuyên
Nghiêu Tử, rồi lại Trịnh Kiên
Hàn lâm học sĩ dốt nguyên cả làng (1448)
Năm Giáp Tý bắt giam Lê Liệt
Rồi Phục, Khả bị giết oan khiêng(1452)
Ra tayThái hậu nắm quyền
Lệnh bà quyết định mọi đàng trong dân
Năm Bính Dần, chọn nguời khỏe mạnh
Xung vào quân để đánh Chiêm man
Xuất binh chiếm được Chà Bàn
Bí Cai Chiêm chúa đầu hàng quân ta
Phú xin tha cho dân Quy Hóa (1448)
Miền Tuyên Quang đói kém thiếu mưa
Ruộng đồng lúa mọc lưa thưa
Nhiều năm đại hạn mất mùa liên miên
Năm Kỷ Mão, một đêm chính biến
Lê Ðắc Ninh giữ điện cấm quân
Theo phe phản nghịch Nghi Dân (1459)
Cùng hơn trăm đứa leo thành vào cung
LÊ NGHI DÂN HOÀNG ÐẾ (1459- 1460)
Giết Nhân Tông, với cùng thái hậu
Ðoạt ngai vàng kết cấu gian nhân
Người trong bè đảng gia ân
Qua Tàu , sai sứ xin ban vương hầu
Tám tháng sau, hội bàn sự việc
Gồm công thần Ðinh Liệt, Lê Yên
Với quan Nguyễn Xí, Ðiện Tiền
Cùng nhau mưu sự giết liền hai tên
Ðóng cửa thành, giử yên thống suất
Bắt Nghi Dân phế truất tức thời
Quần thần hội kiến với nguời
Tư Thành hoàng tử được mời nhận ngôi (1460)
LÊ THÁNH TÔNG HOÀNG ÐẾ (1460- 1497)
Ðó là ngày, giữa năm mồng sáu
Lên ngai vàng lễ hậu phát tang
Cho anh và mẹ đàng hoàng
Rước vào thế miếu lập đàn cầu siêu
Vua có nhiều thiên tư đặc biệt
Là một người cương quyết thực tài
Lại còn võ giỏi văn hay
Làu thông kinh sử thuở nay mấy người
Ngự trên ngai tuổi đời muời tám
Sửa nhân luân, quyết đoán mối giềng
Ðào Biểu truy nghĩa tuyên dương
Ðắc Ninh giết bỏ làm gương cho đời
Nay cho đổi, là thời Quang Thuận
Xuống chiếu truyền tha án tù nhân
Xét xem chức tước bá quan
Cấp cho ruộng đất để làm của riêng
Năm Canh Thìn sai quan Lê Liệt
Ðem quân đi tiễu triệt Bồn Man (1460)
Dựng văn bia ở Mục Lăng
Bắt làm hộ tịch, đe răn phản thần
Lệnh cho khắp các quan huyện phủ
Phải ưu tiên khuyến nhủ nhân tâm
Chăm lo cày cấy siêng năng
Bỏ gốc theo ngọn khuyên dân không làm
Lệ thi Hương vua ban định rõ (1462)
Danh sách thi gạt bỏ những người
Dù cho học giỏi, có tài
Mà vô đạo đức cũng hoài bỏ đi
Lại định kỳ thi Hương, thi Hội
Ðệ nhất thời phải hỏi Tứ Thư
Thứ hai : chiếu, chế, biểu từ
Thứ ba “ thơ, phú. Thứ tư :sách, bài
Về hành chánh, hỏi tay hiểu việc
Chốn nha môn phải biết ký tên
Hưu quan sáu chục trở lên
Ðược về trí sĩ giữ nguyên tước hàm.
Ðổi sáu bộ ra làm sáu viện
Mỗi viện đều riêng tuyển thượng thư
Truyền cho làm việc đúng giờ (1462)
Nhưng saulại đổi y như xưa làm
Tháng hai năm Quý Mùi, thi Hội
Vua thân hành vấn hỏi thí sinh (1463)
Tiến sĩ chọn được Thế Vinh
Bắt loa truyền gọi xướng danh từng người
Trăm kẻ thi một người được đỗ
Treo bảng vàng ngoài cửa Ðông Hoa
Ban ân ủy dụ thật là
Vô cùng trân trọng vang xa dội gần
Năm Giáp Thân (1464) vua về cúng tế
Ở Sơn Lăng theo lệ hằng năm
Giải oan Nguyễn Trãi, chiếu rằng :
“Bổ cho con Nguyễn Trãi chức đồng tri Châu”
Vua nhớ đến công lao Nguyễn Trãi (1467)
Cho phục hồi hết thảy thơ văn
Ðề cao giá trị tinh thần
Phần nào chuộc lại lỗi lầm tiên vương
Sai người đi dò đường, dò bể (1490)
Vẽ bản đồ hình thể quốc gia
Ðịnh ra biên giới nước ta
Ai Lao, Chiêm Quốc thật là phân minh
Việc quân ngũ định thành quy chế (1467)
Chia ra làm mỗi vệ như sau :
Vệ thì : năm sở làm đầu
Sở : hai chục đội được giao tuyển người
Quân số đội là hai mươi chẵn
Luyện côn quyền, thương giản cho tinh
Lúc nào đất nước thanh bình
Cho về một nửa dân đinh cấy cày
Sai Khuất Ðã ra tay đánh giặc (1467)
Ðến Mã Giang vây bắt Ðạo Ðồng
Tiểu trừ ở sách Man Nhung
Dẹp tan giặc cỏ yên lòng nhân dân
Với quần thần, vua ban sắc dụ
Thường hay dùng điển cũ, ý xưa
Răn người bất nghĩa a dua
Lời trong sắc dụ nghe như văn tài
Nguyễn Bá Ký là tay học sĩ
Chê vua không chú ý sử kinh
Không theo lối học thực hành
Phù hoa sáo điễn thiếu phần cách tân
Vua tự xưng Tao Ðàn nguyên soái
Hăm tám người lập hội làm thơ
Ða phần bài xướng của vua
Các quan họa lại ngợi ca hết lời
Vua lại sai Sĩ Liên phụng chỉ
Viết “Ðại Việt sử ký toàn thư”
Phu Tiên năm Hợi bấy giờ
Hơn hai niên kỷ đến chừ mới xong (1479)
Truyền Lễ, Cử, Nhuận, Trung, Ðình Bảo
Biên tập xong chính sự quốc triều
Viết từ Thái Tổ tiếp theo
Soạn thành trăm quyển chia nhiều bộ môn
Các sử quan vâng theo chếu chỉ
Cố cho xong bất kể đêm ngày
“Thiên Nam Dư Hạ Tập” này
Công trình biên soạn đến nay hoàn thành (1483)
Lại sai chép “Thân Chinh ký sự”
Ghi rõ ràng lịch sử đánh Chiêm
Ai Lao cũng đã dẹp yên
Viết thành một quyển để riêng bấy giờ
Luật Hồng Ðức trong Dư Hạ tập
Là biểu trưng luật pháp quốc gia
Hình quan theo đó mà tra
Những điều luật định thật là phân minh
Vua ví mình ngang danh Ðỗ Phủ (1496)
Thường huênh hoang giữa chỗ triều đình
Tao Ðàn nguyên soái xưng danh
Thơ văn khẩu khí chỉ dành hạng trung
Lê Thánh Tông có chừng vài quyển
Ðại khái là “Quỳnh Uyển cửu ca”
“Cổ kim bách vịnh” thi ca
“Xuân vân”, “Kim cổ”, “Anh hoa” thơ Ðường
Về ngoại giao lựa phương khôn khéo
Nước Chiêm Thành chọn mẹo cầu phong
Nhã Lan không dám hai lòng
Bồn, Sơn man cũng phục tùng nước ta
Với nhà Minh thì ta giữ đúng
Cứ ba năm triều cống một lần
Chọn đi những vị sứ thần
Có tài ứng đối ngoại nhân phải gờm
Viết cảo thơm “Bình Chiêm sách lược”(1471)
Mười mấy điều phát trước trong doanh
Tháng năm Tân Mão đánh thành (1471)
Chà Bàn bắt sống tù binh mấy ngàn
Băm tám năm Tư Thành nối nghiệp
Ðược tôn xưng hoàng đế Thánh Tông
Một người nổi tiếng hiếu trung
Có tài văn học, tinh thông lắm điều
Trong đời vua có nhiều trước tác
Ðịnh luật hình cùng các việc binh
Xây thêm đền điện, cung đình
Sửa sang chính sự cho thành nếp hơn
Ðạo làm con, một lòng hiếu thảo (1496)
Khi mẹ đau dâng cháo, hầu cơm
Ngày đêm bên cạnh chăm nom
Ðến khi mẹ chết tự làm ma chay
Viết bút thỏ một bài tự thuật :
“Ngũ thập niên hoa thất xích khu
Cương trường như thiết khước thành nhu
Phong xuy song ngoại hoàng hoa tạ
Lộ ấp đình tiền lục liễu tồ
Bích hán vọng tùng vân diễu diễu
Hoàng lương mộng tỉnh dạ du du
Bồng lai sơn thượng âm dung đoạn
Băng ngọc u hồn nhập mộng vô ?
Ngoài trời rắc mấy hạt mưa
Giấc thiên thu đã vỗ ru đêm dài
“Năm chục hoa niên bảy thước thân
Lòng như sắc cứng bỗng mềm dần
Gió lay khô héo hoa bên cửa
Sương dãi gầy mòn liễu trước sân
Trời biển xa trông mây thăm thẳm
Kê vàng tỉnh giấc dạ bâng khuâng
Khuất lời cách mặt non bồng vắng
Băng ngọc du hồn nhập mộng chăng ?”
Vua đứng ra, tự mình tẩm liệm
Thay áo quần cho đến rửa chân
Bỏ vào miệng mẹ kim ngân
Cầu xin cho mẹ siêu thần cõi tiên
Lê Thánh Tông người hiền hiếm có
Lúc làm vua uy vũ anh minh
Giữ yên trăm họ thái bình
Xiển dương văn hoá, luật hình sửa sang
0 nhận xét:
Đăng nhận xét