Lòng rộng mở muôn hoa ngàn lá
Cùng phô bày nét lạ đường nghiêng
Tin vui loan đến lâm tuyền
(1600) Ức Trai, Thị Lộ xuống thuyền rước vua
*
Vinh dự ấy người ưa kẻ muốn
Một lão thần được chuộng được yêu
Tránh sao cho khỏi búa rìu
Nh"ng người ganh tỵ, kiếm điều dèm pha
*
Thị Anh phi, nghĩ xa lo sớm
Vì con thơ quyết tóm uy quyền
Sợ người tạo thế ngửa nghiêng
Dành ngôi Hoàng tử, cướp thuyền Quân vương
*
Sau Đình Hội, hiền lương sơn thủy
Ngọc Dao phi nở nhụy khai hoa
Khôi ngô đúng thiệt con nhà
Sợ rằng Nguyễn Trãi nói xa nói gần
Chúng tìm cách rẻ phân tôi chúa
Cử Tạ Thanh, xe ngựa theo hầu
Trống kèn đón trước tiễn sau
Canh chừng theo dỏi lời chào tiếng thưa
*
Thêm Lương Dật chanh chua sâu hiểm (72)
Tung truyền thêm rắn điểm oan cừu
Tạo ra sương khói mịt mù
(1620) Chung quanh hai kẻ ngàn thu một lòng
*
Lòng Nguyễn Trãi trắng trong như ngọc
Nghĩa vua tôi, kẻ tóc đường tơ
Luôn luôn trọn chữ phụng thờ
Đường ngay nét thẳng như tờ giấy nguyên
*
Vua vẫn kính tôi hiền tài giỏi
Đạo làm vua biết đợi biết chờ
Biết ai vun quén cõi bờ
Biết người cương quyết vươn cờ nước Nam
*
Vốn mến chuộng non lam núi biếc
Vùng địa linh hào kiệt muôn đời
Tham quan phong cảnh tuyệt vời
Bạch vân am động, núi đồi thênh thang
*
Ngắm về phía An Bang hùng vĩ
Nơi uy linh, lăng vị nhà Trần
Vọng sang Kiếp Bạc mây tầng
Có đền Hung Đạo muôn phần trang nghiêm
*
Chung trà nóng, thâu đêm bàn bạc
Nghĩa vua tôi, tỏa ngát niềm thông
Nhà vua cởi mở tất lòng
(1640) Yêu cầu Nguyễn Trãi ra công tài bồi
*
Trước cố gắng phục hồi no ấm
Cho dân gian đầm thấm yên vui
Vườn xuân nụ liếc hoa cười
Líu lo chim hót, sáng ngời vầng dương
*
Sau sửa đổi con đường thi cử
Khuyến khích người kinh sử trau dồi
Những ai tài trí vun bồi
Tận tình tiến cử, trọn đời giúp vua
*
Ngoài gắng sức tranh đua kiến thiết
Nét phong quang, nhạc tiết tô thêm
Lễ nghi đạo đức chung thềm
Vui tưoi cùng kết, êm đềm cùng xây
*
Niềm thông cảm gió mây non nước
Giữa vua tôi đâm tược nẩy mầm
Hân hoan vua khẻ liên ngâm
Một bài ca tụng, tình thâm tôi hiền
*
Sau buổi duyệt chiến thuyền đông chí (73)
Ghé Côn Sơn hậu hỉ tôi thần
Quân sư tài đức đương trần
(1660) Thua chi những kể oai thần xa xưa
*
Nhớ Lam Sơn gió mưa ngày trước
Phượng trổ tài giúp nước phò vua
Ngày nay tạo đất tạo mùa
Đan thanh nét vẽ, nô đùa liễu mai
*
Lòng Nguyễn Trãi, hoa khai cánh nở
Nguyện chép thơ vào vở bảo tàng
Giấy trong mực thắm ngay hàng
Tạ ơn thánh chúa, lưu ngàn năm sau
*
Nguồn xúc động tuôn trào lai láng
Họa khớp bài nguyên vận vua ban
Những mong đền đáp ơn vàng
Còn thương cỏ nội hoa ngàn đến thăm
*
Nguyên ước vọng trong tâm trong chí (74)
Được thánh hoàng xét nghĩ tôi thần
Dẫu thân đi hết đường trần
Cũng không dám nghĩ một lần nắng mưa
*
Chưa mong mỏi say sưa non nước
Chỉ ước mơ sau trước phò vua
Dám đâu trăng cợt non đùa
(1680) Ngẩn ngơ long phượng, thẹn thùa liễu mai
*
Mê bàn bạc sao mai lố dạng
Sáng hôm sau sửa soạn lên đường
Vua tôi hai ngã, hai phương
Bình Than bến đợi quân vương xuôi thuyền
*
Sau giây phút hàn huyên cùng vợ
Chức Lễ Nghi Thị Lộ hồi cung
Xa rời người bạn tình chung
Nước non dong ruổi chập chùng Bắc Đông
*
(72) Lương Dật là em của Lương Đăng từng tranh với Nguyễn Trãi lo về Lễ nhạc
(73) Theo Bùi Văn Nguyên, trong Truyện Nguyễn Trãi, bài thơ của vua Lê Thái Tông tặng Nguyễn Trãi, nhan đề Cuộc Tao ngộ, viết bằng chữ hán do Vân Trình dịch như sau :
Thuyền trận duyệt xong buổi thoái hồi
Côn Sơn xe ngựa ruổi qua chơi
Thăm nền Lục Dã nhìn mây rỗi
Nhớ thuở Lam Sơn trổ phượng tài
Trong động riêng trời quên tuổi giáp
Bên non hiếm đất dựng lâu đài
Đan thanh nét vẽ nhờ ai tá
Tô điểm sông hồ cảnh liễu mai ?
(74) Theo Bùi Văn Nguyên, trong Truyện Nguyễn Trãi, bài thơ của Nguyễn Trãi, viết bằng chữ hán do Vân Trình dịch như sau :
Mộng tưởng trời cao những mấy hồi
Cả mừng xe ngọc kíp lên chơi
Đội ơn thánh đế thương tôi cũ
Muốn giúp triều cương thẹn bất tài
May được nhàn thân bên suối động
Dám đâu riêng đất dựng lâu đài
Nước non hội ngộ chào long giá
Mưa móc đầm đìa nhuận liễu mai
Nơi Nguyễn Trãi được phong Hành kiểm
Cùng chăm lo huấn luyện ba quân
Sá chi gian khổ nhọc nhằn
Miển sao nung đúc tinh thần hy sinh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét