Thứ Tư, 11 tháng 3, 2015

Những Vần này "Cưỡng" hay "Thông" - Hàn Sĩ Nguyên

1-Nhắc lại đôi điều về cách hoà vận 

Có 4 cách hoà vận : 

a-Chính vận :

Là những vần ăn khớp chặt chẽ với nhau (ví như anh em ruột vậy) 
Thí dụ : 
A với A 
I với I 
AI với AI 
ONG với ONG v.v.... 
gọi là chính vận ( vần nào ăn khớp chặt chẽ với vần nấy ) 

b-Thông vận

Là những vần cùng nhóm, hơi khác nhau một chút nhưng có thể tương thông với nhau. Nói nôm na là “hơi khác nhau, nhưng nghe ... lọt tai” (ví như anh em chú bác ruột vậy). 
Thí dụ : 
A với oa 
I với e, ê, ia, uy 
AI với ay, ây 
EM với êm, im, iêm 
ANH với inh, ênh, uynh 
ANG với oang, ương 
ONG với ông, ung v.v... 
gọi là thông vận ( vần hơi khác loại nhưng ăn thông với nhau được ) 

c-Cưỡng vận : 

Là vần ép, vần cưỡng bách, bản thân chúng không liên quan với nhau mấy ( bà con quá xa, xa 5,7 đời) thực chất thì không thông nhau được, nhưng miễn cưỡng dùng ép cũng ... tạm được. Tất nhiên cưỡng vận chỉ được dùng khi ... bí vận mà thôi. Miễn cưỡng thì cũng được, nhưng nếu dùng nhiều quá thì sẽ làm giảm hoặc mất giá trị bài thơ 
Thí dụ : 
AN với ang 
ON với om 
ƠN với ơm 
ÔN với ôm 
UÔN với ƯƠNG 
IN với inh, im, êm, iêm ... 
v.v..... 
gọi là cưỡng vận ( vần ép, vần cưỡng bách ) 

d-Lạc vận : 

Ơ với ơi 
A với ai, ia 
Ô với ôi, ôn, ông 
ƠI với ơn 
AI với an, ang v.v.... 
gọi là lạc vận ( vần ăn ... trét; không hoà vận ) 

Trong 4 cách hoà vận nói trên 

-Chính vận thường chặt chẽ, nhưng cũng gò bó, kém phần linh động. 
-Thông vận là cách hòa vận thoải mái nhất, làm cho bài thơ trở nên đặc sắc, biến ảo vô cùng 
-Cưỡng vận là vần ép, miễn cưỡng cũng có thể dùng được, nhưng nếu sử dụng cưỡng vận nhiều quá, sẽ làm giảm giá trị câu thơ 

Tóm lại : 

Cả ba cách hoà vận nói trên đều dùng được 
Chỉ riêng Lạc vận là phải tuyệt đối tránh, gieo vần lạc vận kể như bài thơ hỏng 

2-Cưỡng hay thông ? 

Một vấn đề thường hay gây ra tranh cãi là bản thân 2 vần nào đó là “Cưỡng vận” hay “Thông vận” của nhau ?. Một tiêu chuẩn là xét theo truyện Kiều, những vần nào Nguyễn Du có sử dụng, được coi như thông vận. 

Một số thí dụ như sau : 

Ong, ông, ung là thông vận 

Thí dụ : 

Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao 
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán LÒNG 
Phòng văn hơi giá như ĐỒNG 
Trúc se ngọn thỏ, tơ CHÙNG phím loan 
........................................Nguyễn Du-Kiều [251-254] 

Ang, oang, ương là thông vận 

Thí dụ : 

Cung thương làu bậc ngũ âm 
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một TRƯƠNG 
Khúc nhà tay lựa nên XOANG 
Một thiên “Bạc mệnh” lại CÀNG não nhân 
........................................Nguyễn Du-Kiều [31-34] 

Nhưng ong, ông và ương là cưỡng vận. (Trong toàn bộ truyện Kiều, không có câu nào ông đi đôi với ương cả) 

Cưỡng vận tuy miễn cưỡng cũng dùng được, nhưng nếu có thể thì nên tránh . 

3-Nguyên tắc chung của các quan điểm liên quan đến Thông vận và Cưỡng vận là : 

-Vần nào Nguyễn Du có sử dụng được kể như thông vận 
-Vần nào Nguyễn Du không sử dụng là cưỡng vận 

4-Thật ra, quan niệm cưỡng hay thông cũng là do con người định đoạt. 

Một vần nào đó bản chất là cưỡng, nhưng nếu được dùng nhiều lần quen đi trong những bài thơ hay thì dần dần cưỡng ấy sẽ được coi như thông mà thôi : 

a-Trong truyện Kiều : 

Rất ít khi thấy xuất hiện Cưỡng vận. Cả bộ truyện, chỉ có thể nhặt ra được 4 lần Nguyễn Du sử dụng cưỡng vận mà thôi : 

Lời con dặn lại một hai 
Dẫu mòn bia đá, dám phai tấc VÀNG 
Lạy thôi nàng lại rén CHIỀNG : 
-“Nhờ cha trả được nghĩa CHÀNG cho xuôi” [771-774] 

Tin nhà ngày một vắng TIN 
Mặn tình cát luỹ, nhạt TÌNH tào khang [1480] 

Bao nhiêu đoạn khổ tình thương 
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở THAN 
Dặn tôi đứng lại một BÊN 
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu [2002] 

Lệnh quan ai dám cãi lời 
Ép tình mới gán cho người thổ quan 
Ông tơ thật nhẽ đa ĐOAN 
Xe tơ sao khéo vơ QUÀNG vơ xiên [2600] 

b-Trong phong trào thơ mới 1932 : 

Kiểu hoà vận này lại rất thường thấy 

Thí dụ : 

Viết vội mấy dòng để ý TAN 
Đang khi hồn ở chốn mơ MÀNG 
Chỉ mong ân ái vài giây phút 
Giữa lúc say say tưởng cạnh NÀNG 
.................................Say- Đỗ Huy Nhiệm...... 

Nàng về thôn nảo thôn nao ấy 
Sau núi nghiêng nghiêng đá chập CHÙNG 
Những buổi chiều vàng sau nắng nhạt 
Theo chiều lại đến với yêu THƯƠNG 
.................................Say- Đỗ Huy Nhiệm.... 

Đừng mong ước cả thiên ĐƯỜNG 
Hãy xin lấy nửa mảnh VƯỜN trắng hoa 
-----------------------Giản dị-Hồ Dzếnh........ 

Khăn nhung quần lĩnh rộn RÀNG 
Áo cài khuy bấm em LÀM khổ tôi 
............................Chân Quê-Nguyễn Bính.... 

Nào đâu cái áo tứ thân 
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái ĐEN ? 
Nói ra sợ mất lòng EM 
Van em em hãy giữ NGUYÊN quê mùa 
............................Chân Quê-Nguyễn Bính.... 

Lòng tôi như chiếc thuyền NAN 
Tình cô như khách sang NGANG một chiều 
..............................Sang ngang-Nguyễn Đình Thư 

Ta nhớ chiều khi dưới ánh TRĂNG 
Cúi nâng tà áo nhẹ tay CẦM 
Mơ màng ngỡ nắm tơ trăng biếc 
Áo lụa ngời trăng đẹp mỹ NHÂN 
.....................Áo lụa-Bàng Bá Lân....... 

Lớn lên em đã biết làm DUYÊN 
Mỗi lúc gặp tôi che nón NGHIÊNG 
Nghe nói ba em chưa chịu nhận 
Cau trầu của khách láng giềng BÊN 
.................Gái Quê- Hàn Mặc Tử ....... 

Hôm nay sáng tỏ cung HẰNG 
Khiến lòng em nhớ hôm RẰM bên anh 
...........................Ghen Trăng- Mai Đình .....

Một mùa thu trước mỗi hoàng HÔN 
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy BUỒN 
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc 
Tôi chờ người đến với yêu ĐƯƠNG 
..................Hai sắc hoa Ti-gôn – TTKH ....... 

Tóm lại : 

Qua những thí dụ ấy, ta thấy rằng nếu biết dùng cưỡng vận một cách hạn chế, có chừng mực thì bài thơ vẫn hay như thường. Còn nếu lạm dụng, hoặc dùng không khéo thì ... khó nghe lắm. 

Và cuối cùng thì câu hỏi “Vần này Cưỡng hay Thông” vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có câu đáp vậy. 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét