Con cáo cộc đuôi - Le renard ayant la queue coupée
Un vieux renard, mais des plus fins,
Grand croqueur de poulets, grand preneur de lapins,
Sentant son renard d'une lieue,
Fut enfin au piège attrapé.
Par grand hasard en étant échappé,
Non pas franc, car pour gage il y laissa sa queue;
S'étant, dis-je, sauvé sans queue, et tout honteux,
Pour avoir des pareils (comme il était habile),
Un jour que les renards tenaient conseil entre eux:
«Que faisons-nous, dit-il, de ce poids inutile,
Et qui va balayant tous les sentiers fangeux?
Que nous sert cette queue? Il faut qu'on se la coupe:
Si l'on me croit, chacun s'y résoudra.
- Votre avis est fort bon, dit quelqu'un de la troupe;
Mais tournez-vous, de grâce, et l'on vous répondra.»
A ces mots il se fit une telle huée,
Que le pauvre écourté ne put être entendu.
Prétendre ôter la queue eût été temps perdu;
La mode en fut continuée.
(Dựa theo truyện của Ésope)
Bản dịch : Nguyễn Văn Qua
Một con Cáo "cáo" hơn mọi Cáo
Mõm nhai gà gặm thỏ rành nghề
Một hôm xấu hổ ê chề
Ăn trộm sa bẫy
Đuôi lìa khỏi thân
Nghĩ mà cực nhăn nhăn nhó nhó
Nghĩ mà ê cảnh đứt đuôi ra
Tiếng đồn lan khắp gần xa
Cáo liền nghĩ cách bầy ra họp hành
Để chữa thẹn, Cáo liền sáng kiến
Khuyên cả đàn vứt bỏ đuôi đi
Giữ cái đuôi ấy làm gì
Chẳng ra chổi quét, chẳng ra thịt thừa!
Cả bầy Cáo lạ gì Cáo nọ
Chẳng thèm nghe, la ó ầm lên
Một con cất giọng mỉa thêm:
"Xin quay lưng lại cho chiêm ngưỡng nào
Mốt này mới đẹp làm sao"
Cáo cộc xấu hổ lủi vào rừng sâu
(Nguồn: Truyện ngụ ngôn La-phông-ten/ NXB Văn hoá thông tin, 2005)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét