Hiển thị các bài đăng có nhãn La Fontaine. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn La Fontaine. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Liên minh chuột cống

Liên minh chuột cống - La ligue des Rats

Qui dès longtemps la guettait au passage. 
Que faire en cet état? Elle, prudente et sage, 
Consulte son Voisin: c'était un maître Rat, 
Dont la rateuse Seigneurie 
Était logée en bonne Hôtellerie, 
Et qui cent fois était vanté, dit−on, 
De ne craindre de chat ou chatte 
Ni coup de dent, ni coup de patte. 
" Dame Souris, lui dit ce Fanfaron, 
Ma foi, quoi que je fasse, 
Seul, je ne puis chasser le Chat qui vous menace: 
Mais assemblant tous les Rats d'alentour, 
Je lui pourrai jouer d'un mauvais tour." 
La Souris fait une humble révérence; 
Et le Rat court en diligence 
À l'office, qu'on nomme autrement la dépense, 
Où maints Rats assemblés 
Faisaient, aux frais de l'Hôte, une entière bombance. 
Il arrive, les sens troublés, 
Et les poumons tout essoufflés. 
" Qu'avez−vous donc? lui dit un de ces Rats; parlez. 
− En deux mots, répond−il, ce qui fait mon voyage, 
C'est qu'il faut promptement secourir la Souris; 
Car Raminagrobis 
Fait en tous lieux un étrange ravage. 
Ce Chat, le plus diable des Chats. 
S'il manque de Souris, voudra manger des Rats." 
Chacun dit : " Il est vrai. Sus ! sus ! Courons aux armes ! " 
Quelques Rates, dit−on, répandirent des larmes. 
N'importe, rien n'arrête un si noble projet : 
Chacun se met en équipage ; 
Chacun met dans son sac un morceau de fromage; 
Chacun promet enfin de risquer le paquet. 
Ils allaient tous comme à la fête, 
L'esprit content, le coeur joyeux. 
Cependant le Chat, plus fin qu'eux, 
Tenait déjà la Souris par la tête. 
Ils s'avancèrent à grands pas 
Pour secourir leur bonne Amie: 
Mais le Chat, qui n'en démord pas, 
Gronde et marche au−devant de la troupe ennemie. 
À ce bruit, nos très prudents Rats, 
Craignant mauvaise destinée, 
Font, sans pousser plus loin leur prétendu fracas, 
Une retraite fortunée. 
Chaque Rat rentre dans son trou; 
Et si quelqu'un en sort, gare encor le Matou!

Bản dịch : Huỳnh Lý

Chuột Nhắt sợ nhất ông Mèo 
Rình đường núp ngõ chực khuề cô ta 
Khôn ngoan và tính phòng xa 
Vẫn mưu tướng Cống, lần gia, con dòng 
Có dinh cơ ở trong khách sạn 
Hàng trăm lần Cống vẫn oang oang 
Rằng yêng hùng ngự một phương 
Nanh dài, vuốt nhọn coi dường trò chơi 
"Cô nương ạ, ngặt vì có một 
Tướng quân mà bộ tốt thì không 
Cách chi đuổi đánh khỏi vùng 
Cái tên giặc làm núng lòng cô nương? 
Duy chỉ có một phương tuyệt diệu: 
Cống quanh đây ra triệu tập về 
Rồi xem Mãn tặc mặt ê" 
Cô Nhắt bái biệt. Cống đi tức thời 
Vào nhà bếp là nơi họ Cống 
Lục nồi niêu ăn uống hả hê 
Chủ nhà gánh hết khoản chi 
Còn tướng Cống thở phì phì, hết hơi 
"Đại ca có việc chi?", một hỏi 
- Vắn tắt huynh xin nói: "đến đây 
Để lo cứu Nhắt nhanh đi 
Bởi chưng giặc Mãn vô nghì hung hăng 
Giết chẳng kể lân bang, viễn xứ 
Tay Mãn này quỷ sứ chính tông 
Hết Nhắt, chư đệ đừng hòng 
Mãn yêu tinh nể giống dòng Cống ta!" 
Khắp xứ bếp reo to: "Phải đấy! 
Sát! Sát! Thôi mau lấy gươm dao" 
Vài chị Cống dạ nao nao 
Khóc than kể lể thấp cao sự tình 
Lệ nữ nhi, mộng công danh 
Cái thân nam tử quang vinh làm đầu 
Giáp, đai chiến sĩ sắm mau 
Lại khoanh phó mát nhét sâu túi kềnh 
Các chú nguyện lộ thiên bày trận 
Phơi phới lòng không bận âu lo 
Vui như trảy hội, chơi hồ 
Hỡi ôi!... Mãn tặc có thừa khôn ngoan 
Vồ đầu Nhắt là phương cố hữu 
Quân Cống lên toan cứu bạn chung 
Nhưng kìa! Ông Mãn hào hùng 
Phun, gào và cứ xông lên đón đầu 
Cống quân nghĩ nhạy, suy mau: 
Ba mươi sáu chước, chước đào là hơn 
Xấu chi cuộc rút quân danh dự 
Im trống kèn, thôi cứ chui hang 
Đó là cách nhất an toàn 
Bảo đừng lấp ló mà xoang vuốt Mèo

(Nguồn: Ngụ ngôn La Phông Ten/ NXB Giáo Dục, 1996)

Người điên và nhà hiền triết

Người điên và nhà hiền triết - Un fou et un sage

Certain Fou poursuivait à coups de pierre un Sage. 
Le Sage se retourne et lui dit: Mon ami, 
C'est fort bien fait à toi; reçois cet écu-ci: 
Tu fatigues assez pour gagner davantage. 
Toute peine, dit-on, est digne de loyer. 
Vois cet homme qui passe; il a de quoi payer. 
Adresse-lui tes dons, ils auront leur salaire. 
Amorcé par le gain, notre Fou s'en va faire 
Même insulte à l'autre Bourgeois. 
On ne le paya pas en argent cette fois. 
Maint estafier accourt; on vous happe notre homme, 
On vous l'échine, on vous l'assomme. 
Auprès des Rois il est de pareils fous: 
A vos dépens ils font rire le Maître. 
Pour réprimer leur babil, irez-vous 
Les maltraiter? Vous n'êtes pas peut-être 
Assez puissant. Il faut les engager 
A s'adresser à qui peut se venger.

Bản dịch : Đỗ Khắc Siêm, Hà Khắc Nguyện

Nhà hiền triết trên đường thong thả 
Một bác khùng cầm đá liệng ông 
Ông quay đầu bảo bác khùng: 
"Ông làm rất phải thưởng ông ít tiền 
Công khó nhọc được đền là đúng 
Người đến kia chắc cũng lắm tiền 
Ném đi công hẳn được liền" 
Bác khùng vốn tính tham tiền ném ngay 
Công chẳng được, lần này phải khác 
Người theo hầu đánh bác mê tơi 

Cạnh vua, điên cũng lắm người 
Họ dèm pha để vua cười nhạo ông 
Muốn cho chúng câm mồm phải khéo 
Xúi chúng đi trêu ghẹo cường quyền 
Trả thù mà vẫn được yên!

(Nguồn: Ngụ ngôn La Fontaine, NXB Tân Văn, 1992)

Sói và đàn gà tây

Sói và đàn gà tây - Le renard et les poulets d'inde

Contre les assauts d'un Renard 
Un arbre à des Dindons servait de citadelle. 
Le perfide ayant fait tout le tour du rempart, 
Et vu chacun en sentinelle, 
S'écria: Quoi! Ces gens se moqueront de moi! 
Eux seuls seront exempts de la commune loi! 
Non, par tous les Dieux, non. Il accomplit son dire. 
La lune, alors luisant, semblait, contre le sire, 
Vouloir favoriser la dindonnière gent. 
Lui, qui n'était novice au métier d'assiégeant, 
Eut recours à son sac de ruses scélérates, 
Feignit vouloir gravir, se guinda sur ses pattes, 
Puis contrefit le mort, puis le ressuscité. 
Harlequin n'eût exécuté 
Tant de différents personnages. 
Il élevait sa queue, il la faisait briller, 
Et cent mille autres badinages. 
Pendant quoi nul Dindon n'eût osé sommeiller: 
L'ennemi les lassait en leur tenant la vue 
Sur même objet toujours tendue. 
Les pauvres gens étant à la longue éblouis 
Toujours il en tombait quelqu'un: autant de pris, 
Autant de mis à part; près de moitié succombe. 
Le compagnon les porte en son garde-manger. 
Le trop d'attention qu'on a pour le danger 
Fait le plus souvent qu'on y tombe.

Bản dịch : Nguyễn Văn Vĩnh

Đàn gà tây sợ mưu chó sói 
Lên cây cao chói lọi lảm thanh 
Sói ta chạy loạn vòng quanh 
Thấy gà chăm chắm đứng rình trên cây 
Sói nổi giận: - Quân này láo thật! 
Bay đứng xa không bắt được sao? 
Nói rồi sói giở mưu cao 
Nhân đêm hôm ấy trăng sao vặc trời 
Hình như vị ở nơi gà qué 
Thách sói tài giở kế vây quanh 
Sói liền mở túi tinh ranh 
Chồm lên rồi lại như đành chịu thôi 
Đoạn rồi đến nằm co tảng chết 
Ngón phường chèo giở hết trò ra 
Chước đâu khôn khéo thực là! 
Trăm phương nghìn kế thôi mà thiếu chi 
Trong khi sói quanh đi quẩn lại 
Thì đàn gà sợ hãi suốt đêm 
Dẫu rằng buồn ngủ đã mềm 
Chống đôi con mắt mà xem chước gì 
Ra nhìn mãi rồi thì hóa quáng 
Té lộn nhào đâm choạng xuống sân 
Con này con khác ngã dần 
Sói tha con một để gần một bên 
Khi chồng chất đã nên một đống 
Bấy giờ xâu đòn ống đem về 
Ở đời nên nhãng cái nguy 
Càng săn nom lắm, nhiều khi vào tròng

(Nguồn: Nguyễn Văn Vĩnh, Thơ ngụ ngôn La Fontaine, Cảo thơm, 1970)

Rừng và tiều phu

Rừng và tiều phu - La forêt et le bûcheron

Un Bûcheron venait de rompre ou d'égarer 
Le bois dont il avait emmanché sa cognée. 
Cette perte ne put sitôt se réparer 
Que la Forêt n'en fût quelque temps épargnée. 
L'Homme enfin la prie humblement 
De lui laisser tout doucement 
Emporter une unique branche, 
Afin de faire un autre manche. 
Il irait employer ailleurs son gagne-pain; 
Il laisserait debout maint chêne et maint sapin 
Dont chacun respectait la vieillesse et les charmes. 
L'innocente Forêt lui fournit d'autres armes. 
Elle en eut du regret. Il emmanche son fer. 
Le misérable ne s'en sert 
Qu'à dépouiller sa bienfaitrice 
De ses principaux ornements. 
Elle gémit à tous moments: 
Son propre don fait son supplice. 

Voilà le train du Monde et de ses Sectateurs: 
On s'y sert du bienfait contre les bienfaiteurs. 
Je suis las d'en parler; mais que de doux ombrages 
Soient exposés à ces outrages, 
Qui ne se plaindrait là-dessus? 
Hélas! j'ai beau crier et me rendre incommode: 
L'ingratitude et les abus 
N'en seront pas moins à la mode.

Bản dịch : Tú Mỡ

Tiều phu gãy mất cán rìu 
Chữa xong cũng phải ít nhiều thời gian 
Tạm thời Rừng đỡ bị choang 
Tiều phu sau phải cố van vỉ lời: 
"Rừng cho anh được thảnh thơi 
Chỉ xin đẵn một cành thôi không nhiều 
Cho anh thay cái cán rìu 
Sẽ đi nơi khác liệu chiều sinh nhai 
Để yên này bách này sồi 
Mà người trân trọng vẻ tươi cỗi già" 
Rừng ngay thật hóa ngây thơ 
Nối giáo cho giặc, bây giờ hối sao! 
Rìu kia nó lắp cán vào 
Cái thằng bất nghĩa bụng nào tri ân 
Dùng rìu tàn hại ân nhân 
Bao nhiêu xanh tốt nay gần trụi trơ 
Rừng đau không ngớt kêu la 
Ngỡ mình làm phúc hóa ra tội mình 

Chém cha thế thái nhân tình! 
Làm ơn nên vạ, bất bình ai gây 
Nói nhiều cũng mệt lắm thay 
Cây cao bóng cả bị tay phũ phàng 
Ai mà chẳng trách chẳng than? 
Than ôi! kêu lắm chỉ mang lấy phiền 
Quên ân nghĩa, phụ lòng hiền 
Vẫn là thói tục bạc đen trên đời

(Nguồn: Ngụ ngôn chọn lọc La Fontaine, NXB Văn học, 1985)

Phượng hoàng và ác là

Phượng hoàng và ác là - L'Aigle et la Pie

L'Aigle, Reine des airs, avec Margot la Pie, 
Différentes d'humeur, de langage, et d'esprit 
Et d'habit, 
Traversaient un bout de prairie. 
Le hasard les assemble en un coin détourné. 
L'Agasse eut peur ; mais l'Aigle, ayant fort bien dîné, 
La rassure, et lui dit : Allons de compagnie ; 
Si le Maître des Dieux assez souvent s'ennuie, 
Lui qui gouverne l'Univers, 
J'en puis bien faire autant, moi qu'on sait qui le sers. 
Entretenez-moi donc, et sans cérémonie. 
Caquet bon-bec alors de jaser au plus dru, 
Sur ceci, sur cela, sur tout. L'homme d'Horace, 
Disant le bien, le mal, à travers champs, n'eût su 
Ce qu'en fait de babil y savait notre Agasse. 
Elle offre d'avertir de tout ce qui se passe, 
Sautant, allant de place en place, 
Bon espion, Dieu sait. Son offre ayant déplu, 
L'Aigle lui dit tout en colère : 
Ne quittez point votre séjour, 
Caquet bon-bec, ma mie : adieu. Je n'ai que faire 
D'une babillarde à ma Cour : 
C'est un fort méchant caractère. 
Margot ne demandait pas mieux. 
Ce n'est pas ce qu'on croit, que d'entrer chez les Dieux : 
Cet honneur a souvent de mortelles angoisses. 
Rediseurs, Espions, gens à l'air gracieux 
Au coeur tout différent, s'y rendent odieux, 
Quoiqu'ainsi que la Pie il faille dans ces lieux 
Porter habit de deux paroisses.

Bản dịch : Nguyễn Trinh Vực

Phượng Hoàng, Chúa tể loài chim 
Một hôm trời mát, dạo xem cánh đồng 
Vui chân, đến khúc đường vòng 
Ác Là thấy Phượng, sợ không còn hồn! 
Phượng rằng: "Hà tất phải run! 
Nay ta nhàn rỗi du xuân một mình 
Ta cho phép chị đồng hành 
Chuyện trò cởi mở, như tình quen thân!" 
Ác Là mừng rỡ bội phần 
Nhảy nhót, mách lẻo chuyện gần, chuyện xa 
Lạ chi mồm mép Ác Là 
Lăng xăng chân sáo thật là vô duyên 
- Tôi xin làm một điệp viên 
Mật báo Bà rõ việc miền gần xa 
Phượng rằng: "Chị ở lại nhà 
Tính hay bép xép, Triều ta không dùng! 
Việc Triều bí mật lạ lùng! 
Ba hoa nhạy miệng vô cùng hiểm nguy!"...

Nguồn: Thơ ngụ ngôn La Fontaine (tập hai), NXB Giáo dục, 2003.

Hươu ốm

Hươu ốm - Le cerf malade

En pays pleins de cerfs , un cerf tomba malade. 
Incontinent maint camarade 
Accourt à son grabat le voir, le secourir, 
Le consoler du moins multitude importune. 
« Eh! messieurs, laissez-moi mourir. 
Permettez qu'en forme commune 
La Parque m'expédie ; et finissez vos pleurs.» 
Point du tout les consolateurs 
De ce triste devoir tout au long s'acquittèrent, 
Quand il plut à Dieu s'en allèrent 
Ce ne fut pas sans boire un coup, 
C'est à dire sans prendre un droit de pâturage. 
Tout se mit à brouter les bois du voisinage. 
La pitance du cerf en déchut de beaucoup. 
Il ne trouva plus rien à frire 
D'un mal il tomba dans un pire, 
Et se vit réduit à la fin 
A jeûner et mourir de faim. 

Il en coûte à qui vous réclame, 
Médecins du corps et de l'âme! 
Ô temps! ô moeurs! j'ai beau crier, 
Tout le monde se fait payer.

Bản dịch : Nguyễn Đình

Giữa cái xứ đầy hươu 
Một con hươu bị ốm 
Tức thì kéo cuồn cuộn 
Chúng bạn đổ đến thăm 
Lũ lượt tới giường nằm 
Nào vấn an, chữa chạy 
Hoặc đôi lời phân giải 
Cả một lũ rầy rà 
"Ôi thôi! Các ngài tha 
Để cho tôi nhắm mắt 
Theo luật chung, cứ mặc 
Thần Chết triệu tôi đi 
Và những giọt lâm ly 
Ngớt giùm cho tôi với!" 
Mặc hươu van hươu vái 
Khách cứ đến liên miên 
Làm cái việc rõ phiền 
Cho đủ nghi đủ thức 
Và đến khi phúc đức 
Họ cất bước ra về 
Họ không khỏi theo lề 
"Có thăm là có chén" 
Nghĩa là không thể kém 
Món đánh thuế: cỏ tươi 
Tất cả khách đều xơi 
Cỏ rừng xung quanh đấy 
Bữa hươu giảm trông thấy 
Hết cả cái nhém mồm 
Cải sẩy nảy cái ung 
Bệnh con thành vạ lớn 
Cuối cùng hươu lâm khốn 
Đói đến chết nhăn răng 

Thầy thuốc thể xác, thầy thuốc tinh thần 
Đụng vào là chịu muôn phần đắng cay 
Chém cha thói tục thời nay 
Dễ gì có kẻ làm thầy không công 
Dù kêu mấy cũng không xong

(Nguồn: Ngụ ngôn chọn lọc La Fôngten/ NXB Văn học, 1993)

Mèo già và chuột nhắt

Mèo già và chuột nhắt - Le vieux chat et la jeune souris

Une jeune Souris de peu d'expérience 
Crut fléchir un vieux Chat, implorant sa clémence, 
Et payant de raisons le Raminagrobis: 
Laissez-moi vivre: une Souris 
De ma taille et de ma dépense 
Est-elle à charge en ce logis? 
Affamerais-je, à votre avis, 
L'Hôte et l'Hôtesse, et tout leur monde? 
D'un grain de blé je me nourris; 
Une noix me rend toute ronde. 
A présent je suis maigre; attendez quelque temps. 
Réservez ce repas à messieurs vos Enfants. 
Ainsi parlait au Chat la Souris attrapée. 
L'autre lui dit: Tu t'es trompée. 
Est-ce à moi que l'on tient de semblables discours? 
Tu gagnerais autant de parler à des sourds. 
Chat, et vieux, pardonner? cela n'arrive guères. 
Selon ces lois, descends là-bas, 
Meurs, et va-t'en, tout de ce pas, 
Haranguer les soeurs Filandières. 
Mes Enfants trouveront assez d'autres repas. 
Il tint parole; Et pour ma Fable 
Voici le sens moral qui peut y convenir: 
La jeunesse se flatte, et croit tout obtenir; 
La vieillesse est impitoyable.

Bản dịch : Nguyễn Văn Vĩnh

Thím Chuột nhắt trẻ người non dạ 
Bị Mèo già vồ đã nguy nan 
Lẻo mồm còn cứ kêu van: 
- Xin ngài sinh phúc kẻo oan phận này 
Thân Chuột nhắt phỏng tầy mấy chút 
Nhặt của rơi, thiệt hụt gì ai! 
Hãy khoan lượng nghĩ xin ngài 
Vì tôi đã để cho ai đói nào! 
Miệng này phỏng ăn bao nhiêu hạt 
Chỉ cơm rang góc bát là no 
Sá chi thận phận gầy gò 
Để dành các cậu, các cô thì vừa 
Chuột bị bắt trình thưa như vậy 
Mèo bảo rằng: - Lời ấy khó nghe 
Thôi đi, đừng nói nữa đi! 
Tao đây chứ phải giống gì mà mong 
Mèo lại già hẳn không dung xá 
Rất đang tâm, mi lạ chi ta 
Thôi cho mi xuống làm ma 
Kêu cùng thập điện hoạ là có nghe 
Con tao chẳng thiếu chi thực phẩm 
Mèo nói xong bèn lẩm Chuột ranh 

Chuyện này nghĩa lý rành rành 
Đầu xanh vẫn thị tinh ranh khoe mầu 
Già hay tàn nhẫn biết đâu!

(Nguồn: Nguyễn Văn Vĩnh, Thơ ngụ ngôn La Fontaine, Cảo thơm, 1970)

Hai dê cái

Hai dê cái - Les deux chèvres

Dès que les Chèvres ont brouté, 
Certain esprit de liberté 
Leur fait chercher fortune; elles vont en voyage 
Vers les endroits du pâturage 
Les moins fréquentés des humains. 
Là s'il est quelque lieu sans route et sans chemins, 
Un rocher, quelque mont pendant en précipices, 
C'est où ces Dames vont promener leurs caprices; 
Rien ne peut arrêter cet animal grimpant. 
Deux Chèvres donc s'émancipant, 
Toutes deux ayant patte blanche, 
Quittèrent les bas prés, chacune de sa part. 
L'une vers l'autre allait pour quelque bon hasard. 
Un ruisseau se rencontre, et pour pont une planche. 
Deux Belettes à peine auraient passé de front 
Sur ce pont; 
D'ailleurs, l'onde rapide et le ruisseau profond 
Devaient faire trembler de peur ces Amazones. 
Malgré tant de dangers, l'une de ces personnes 
Pose un pied sur la planche, et l'autre en fait autant. 
Je m'imagine voir avec Louis le Grand 
Philippe Quatre qui s'avance 
Dans l'île de la Conférence. 
Ainsi s'avançaient pas à pas, 
Nez à nez, nos Aventurières, 
Qui, toutes deux étant fort fières, 
Vers le milieu du pont ne se voulurent pas 
L'une à l'autre céder. Elles avaient la gloire 
De compter dans leur race (à ce que dit l'Histoire) 
L'une certaine Chèvre au mérite sans pair 
Dont Polyphème fit présent à Galatée, 
Et l'autre la chèvre Amalthée, 
Par qui fut nourri Jupiter. 
Faute de reculer, leur chute fut commune; 
Toutes deux tombèrent dans l'eau. 
Cet accident n'est pas nouveau 
Dans le chemin de la Fortune.

Bản dịch : Nguyễn Văn Vĩnh

Khi nào dê đã ăn no 
Thì dê hay thích tự do chơi bời 
Đi tìm những chốn xa khơi 
Những vùng khuất nẻo, những nơi vắng người 
Núi cao cây cỏ tốt tươi 
Dưới khe sâu thẳm, đá đôi ba hòn! 
Các cô đến đấy nhảy bon 
Chẳng ai ngăn được dê non chạy quàng 
Một hôm dê cái hai nàng 
No nê bỏ nội cỏ vàng đi rong 
Hai bên bờ suối nước trong 
Tình cờ đâu lại đi cùng tới bên 
Có cầu nho nhỏ bên trên 
Đôi cầy họa mới đi len nhau vừa 
Dưới khe dòng nước chảy bừa 
Đứng trên nom xuống nghĩ mà ghê thay! 
Nhịp cầu tấm ván lung lay 
Vậy mà dê nọ bước ngay một đầu 
Dê kia nào có hãi đâu 
Đưa chân cũng bước đầu cầu bên kia 
Thoát coi nào có khác chi 
Vua Pha-nho với vua Louis hội đồng 
Hai nàng bước một thong dong 
Giữa cầu thoắt đã đicùng tới nơi 
Kiêu căng ai lại nhường ai 
Cũng nòi đáo để, cũng vai anh hùng 
Cô này cậy cháu nhà tông 
Dê này Bách lý là ông sáu đời 
Con dòng cháu giống phải chơi! 
Cô kia khi ấy tức thời nghĩ ra 
Tổ tiên ngũ đại nhà ta 
Là dê Tô Vũ ông cha kế truyền 
Cũng là cháu phượng con tiên 
Hai cô cùng dấn bước lên nhịp cầu 
Nào ai có nhượng ai đâu 
Ganh nhau cho đến đâm đầu xuống khe 
Câu này chẳng những chuyện dê 
Bước đường danh lợi ngưởi đi cũng đường

(Nguồn: Nguyễn Văn Vĩnh, Thơ ngụ ngôn La Fontaine, Cảo thơm, 1970)

Bản dịch : Nguyễn Đình

Khi dê gặm cỏ no rồi 
Dê ưa phóng túng cuộc đời thênh thang 
Tìm nơi bãi rộng đồng quang 
Non xanh nước biếc nơi hoang vắng người 
Nơi không nẻo tới đường lui 
Cheo leo vực thẳm, chơi vơi đá ngàn 
Ấy nơi dê thích nhảy quàng 
Quen chân, khôn cản các nàng lêu têu 

Đôi dê nọ phiêu diêu rộng cẳng 
Từ biệt đồng cỏ phẳng rong chơi 
Mỗi nàng một ngả hai nơi 
Tình cờ một chốn cả đôi đụng đầu 
Trên dòng suối bắc cầu ván nhỏ 
Cầy lại qua cũng khó đi đôi 
Dòng sâu nước xiết chơi vơi 
Dẫu cho nữ tướng mấy tài cũng kinh 
Thế mà các cô mình chẳng núng 
Đây bước lên, đó cũng bước lên 
Như vua hai nước láng giềng 
Cùng nhau tranh chấp một miền biên cương 
Và thế đấy. hai nường liều mạng 
Bước, bước đều, trán trán đối nhau 
Kiêu căng ai nhượng ai đâu 
Cả hai tiến tới giữa cầu cuồng ngông 
Cậy điều cao quí giống dòng 
Cháu bà đọ với con ông, đủ vành 
Đều giữ thế chẳng đành nhường bước 
Cùng lăn kềnh xuống nước cả đôi 

Chuyện này chẳng mới trên đời 
Bước đường danh lợi loài ngưởi khác đâu

(Nguồn: Ngụ ngôn chọn lọc La Fontaine, NXB Văn học, 1985)

Quạ, rùa, linh dương và chuột

Quạ, rùa, linh dương và chuột - Le Corbeau, la Gazelle, la Tortue, et le Rat

Je vous gardais un Temple dans mes vers: 
Il n'eût fini qu'avecque l'Univers. 
Déjà ma main en fondait la durée 
Sur ce bel Art qu'ont les Dieux inventé, 
Et sur le nom de la Divinité 
Que dans ce Temple on aurait adorée. 
Sur le portail j'aurais ces mots écrits 
PALAIS SACRE DE LA DEESSE IRIS; 
Non celle-là qu'a Junon à ses gages; 
Car Junon même et le Maître des Dieux 
Serviraient l'autre, et seraient glorieux 
Du seul honneur de porter ses messages. 
L'Apothéose à la voûte eût paru; 
Là, tout l'Olympe en pompe eût été vu 
Plaçant Iris sous un Dais de lumière. 
Les murs auraient amplement contenu 
Toute sa vie, agréable matière, 
Mais peu féconde en ces événements 
Qui des Etats font les renversements. 
Au fond du Temple eût été son image, 
Avec ses traits, son souris, ses appas, 
Son art de plaire et de n'y penser pas, 
Ses agréments à qui tout rend hommage. 
J'aurais fait voir à ses pieds des mortels 
Et des Héros, des demi-Dieux encore, 
Même des Dieux ; ce que le Monde adore 
Vient quelquefois parfumer ses Autels. 
J'eusse en ses yeux fait briller de son âme 
Tous les trésors, quoique imparfaitement: 
Car ce coeur vif et tendre infiniment, 
Pour ses amis et non point autrement, 
Car cet esprit, qui, né du Firmament, 
A beauté d'homme avec grâces de femme, 
Ne se peut pas, comme on veut, exprimer. 
O vous, Iris, qui savez tout charmer, 
Qui savez plaire en un degré suprême, 
Vous que l'on aime à l'égal de soi-même 
(Ceci soit dit sans nul soupçon d'amour; 
Car c'est un mot banni de votre Cour; 
Laissons-le donc), agréez que ma Muse 
Achève un jour cette ébauche confuse. 
J'en ai placé l'idée et le projet, 
Pour plus de grâce, au devant d'un sujet 
Où l'amitié donne de telles marques, 
Et d'un tel prix, que leur simple récit 
Peut quelque temps amuser votre esprit. 
Non que ceci se passe entre Monarques: 
Ce que chez vous nous voyons estimer 
N'est pas un Roi qui ne sait point aimer: 
C'est un Mortel qui sait mettre sa vie 
Pour son ami. J'en vois peu de si bons. 
Quatre animaux, vivants de compagnie, 
Vont aux humains en donner des leçons. 
La Gazelle, le Rat, le Corbeau, la Tortue, 
Vivaient ensemble unis: douce société. 
Le choix d'une demeure aux humains inconnue 
Assurait leur félicité. 
Mais quoi! l'homme découvre enfin toutes retraites. 
Soyez au milieu des déserts, 
Au fond des eaux, en haut des airs, 
Vous n'éviterez point ses embûches secrètes. 
La Gazelle s'allait ébattre innocemment, 
Quand un chien, maudit instrument 
Du plaisir barbare des hommes, 
Vint sur l'herbe éventer les traces de ses pas. 
Elle fuit, et le Rat à l'heure du repas 
Dit aux amis restants : D'où vient que nous ne sommes 
Aujourd'hui que trois conviés? 
La Gazelle déjà nous a-t-elle oubliés? 
A ces paroles, la Tortue 
S'écrie, et dit: Ah ! si j'étais 
Comme un Corbeau d'ailes pourvue, 
Tout de ce pas je m'en irais 
Apprendre au moins quelle contrée, 
Quel accident tient arrêtée 
Notre compagne au pied léger: 
Car, à l'égard du coeur, il en faut mieux juger. 
Le Corbeau part à tire d'aile: 
Il aperçoit de loin l'imprudente Gazelle 
Prise au piège, et se tourmentant. 
Il retourne avertir les autres à l'instant. 
Car de lui demander quand, pourquoi, ni comment 
Ce malheur est tombé sur elle, 
Et perdre en vains discours cet utile moment, 
Comme eût fait un Maître d'Ecole, 
Il avait trop de jugement. 
Le Corbeau donc vole et revole. 
Sur son rapport, les trois amis 
Tiennent conseil. Deux sont d'avis 
De se transporter sans remise 
Aux lieux où la Gazelle est prise. 
L'autre, dit le Corbeau, gardera le logis: 
Avec son marcher lent, quand arriverait-elle? 
Après la mort de la Gazelle. 
Ces mots à peine dits, ils s'en vont secourir 
Leur chère et fidèle Compagne, 
Pauvre Chevrette de montagne. 
La Tortue y voulut courir : 
La voilà comme eux en campagne, 
Maudissant ses pieds courts avec juste raison, 
Et la nécessité de porter sa maison. 
Rongemaille (le Rat eut à bon droit ce nom) 
Coupe les noeuds du lacs : on peut penser la joie. 
Le Chasseur vient et dit: Qui m'a ravi ma proie? 
Rongemaille, à ces mots, se retire en un trou, 
Le Corbeau sur un arbre, en un bois la Gazelle; 
Et le Chasseur, à demi fou 
De n'en avoir nulle nouvelle, 
Aperçoit la Tortue, et retient son courroux. 
D'où vient, dit-il, que je m'effraie? 
Je veux qu'à mon souper celle-ci me défraie. 
Il la mit dans son sac. Elle eût payé pour tous, 
Si le Corbeau n'en eût averti la Chevrette. 
Celle-ci, quittant sa retraite, 
Contrefait la boiteuse, et vient se présenter. 
L'homme de suivre, et de jeter 
Tout ce qui lui pesait: si bien que Rongemaille 
Autour des noeuds du sac tant opère et travaille 
Qu'il délivre encor l'autre soeur, 
Sur qui s'était fondé le souper du Chasseur. 
Pilpay conte qu'ainsi la chose s'est passée. 
Pour peu que je voulusse invoquer Apollon, 
J'en ferais, pour vous plaire, un Ouvrage aussi long 
Que l'Iliade ou l'Odyssée. 
Rongemaille ferait le principal héros, 
Quoiqu'à vrai dire ici chacun soit nécessaire. 
Portemaison l'Infante y tient de tels propos 
Que Monsieur du Corbeau va faire 
Office d'Espion, et puis de Messager. 
La Gazelle a d'ailleurs l'adresse d'engager 
Le Chasseur à donner du temps à Rongemaille. 
Ainsi chacun en son endroit 
S'entremet, agit, et travaille. 
A qui donner le prix ? Au coeur si l'on m'en croit.

Bản dịch : Nguyễn Trinh Vực

Linh dương, Rùa, Chuột, Quạ khoang 
Bốn con kết nghĩa đá vàng anh em 
Cùng nhau ở một hang lèn 
Xa Người tưởng được bình yên tốt lành 
Ngờ đâu Người rất tinh anh 
Chỗ nào họ cũng thân hành đến nơi 
Trong rừng, dưới bể, chân trời 
Đi đâu cũng bẫy người đặt giăng 
Linh dương một bữa đi ăn 
Chẳng may gặp phải chó săn của Người 
Linh dương thấy biến chạy dài 
Đến trưa cũng chửa về nơi hang nhà 
Khi ăn bốn mặt còn ba 
Chuột rằng: "Nó dễ quên bà con đây" 
Rùa rằng: "Nếu tớ biết bay 
Xem Linh dương nó giờ đây thế nào 
Dễ chừng mắc nạn nơi đâu 
Linh dương đâu có quên bầu bạn đây" 
Quạ nghe liền cất cánh bay 
Thấy bạn mắc lưới, trở ngay về nhà 
Bởi vì xuống hỏi rầy rà: 
"khinafo", "sao thế", như ba thầy đồ 
Thì Linh dương phải vào lò 
Cảnh tình thật tội mỗi giờ một nguy 
Quạ ta cũng đã nghĩ suy 
Cho nên không xuống vội phi về nhà 
Chuột, Rùa thấy Quạ chạy ra 
"Linh dương nguy quá nó sa bẫy rồi" 
Ba con bàn luận một hồi 
Quạ rằng: "Giờ Chuột với tôi lên đường 
Ta đi tháo bẫy Linh dương 
Anh Rùa chậm chạp khôn đương việc này 
Anhđành ở giữ nhà đây" 
Dứt lời Chuột chạy, Quạ bay tức thì 
Nhưng Rùa cũng cứ theo đi 
Càng đi càng tức chân kia, mai này 
Đến nơi Chuột cắn lưới dày 
Linh dương thoát được khỏi tay lưới Người 
Thợ săn cũng chay đến nơi 
Hô rằng: "Ai cướp mất mòi của tôi?" 
Quạ bay lên ngọn cây Sồi 
Linh dương vào bụi, Chuột chui xuống hầm 
Thợ săn trong dạ càng căm 
Thấy Rùa lững thững thẳng xăm đến liền 
Bỏ Rùa vào đẫy xách lên 
Nói rằng: "Mày đã chọc điên tao rồi 
Tối nay tao thịt mày chơi" 
Dễ thường Rùa phải bỏ đời đó chăng? 
Quạ trông thấy bảo Linh dương 
Linh dương nhảy vụt, Người quăng đẫy Rùa 
Giả đi lạc để Người lùa 
Chuột ta nhân dịp nhảy vô gặm liền 
Rùa ra ai nấy băng miền 
Trong bốn con ấy nên khen con nào? 
Kể công thì Chuột đứng đầu 
Nhưng con nào cũng yêu nhau hết lòng 
Chữ tâm quý hoá vô cùng 
Yêu nhau rời núi lấp sông quản nào

(Nguồn: Thơ ngụ ngôn La Fontaine (tập hai), NXB Giáo dục, 2003)

Cụ già và ba người trai trẻ

Cụ già và ba người trai trẻ - Le vieillard et les trois jeunes hommes

Un octogénaire plantait. 
« Passe encor de bâtir ; mais planter à cet âge ! » 
Disaient trois jouvenceaux, enfants du voisinage ; 
Assurément il radotait. 
«Car, au nom des dieux, je vous prie, 
Quel fruit de ce labeur pouvez-vous recueillir ? 
Autant qu'un patriarche il vous faudrait vieillir. 
A quoi bon charger votre vie 
Des soins d'un avenir qui n'est pas fait pour vous ? 
Ne songez désormais qu'à vos erreurs passées ; 
Quittez le long espoir et les vastes pensées ; 
Tout cela ne convient qu'à nous. 
- Il ne convient pas à vous-même, 
Repartit le vieillard. Tout établissement 
Vient tard, et dure peu. La main des Parques blêmes 
De vos jours et des miens se joue également. 
Nos termes sont pareils par leur courte durée. 
Qui de nous des clartés de la voûte azurée 
Doit jouir le dernier ? Est-il aucun moment 
Qui vous puisse assurer d'un second seulement ? 
Mes arrière-neveux me devront cet ombrage 
Eh bien! Défendez-vous au sage 
De se donner des soins pour le plaisir d'autrui ? 
Cela même est un fruit que je goûte aujourd'hui 
J'en puis jouir demain, et quelques jours encore ; 
Je puis enfin compter l'aurore 
Plus d'une fois sur vos tombeaux.» 
Le vieillard eut raison l'un des trois jouvenceaux 
Se noya dès le port, allant à l'Amérique ; 
L'autre, afin de monter aux grandes dignités, 
Dans les emplois de Mars servant la République, 
Par un coup imprévu vit ses jours emportés ; 
Le troisième tomba d'un arbre 
Que lui-même il voulut enter; 
Et pleurés du vieillard, il grava sur leur marbre 
Ce que je viens de raconter.

(Dựa theo truyện của Abstemius)

Bản dịch : Nguyễn Văn Vĩnh

Cụ tám mươi đương trồng cây cối 
Có ba chàng trẻ tuổi cười rằng: 
- Làm nhà hoạ có nên chăng 
Trồng cây thì thực lố lăng mất rồi 
Khoan đã! cụ già ơi, con hỏi: 
Quả ai ăn, cụ nói con hay? 
Hoạ may Bành Tổ lên đây 
Chứ như đại lão, phỏng ngày còn bao! 
Làm chi thế công lao cho uổng 
Thóc người ăn, cày ruộng hơi đâu! 
Thôi thôi, cụ bấy tuổi đầu 
Chi bằng ngồi khểnh vuốt râu ngắm đời 
Hối những sự lầm sai thuở nhỏ 
Còn ước xa đã có chúng tôi 
Rằng: 
- Con cũng quá buổi rồi 
Phàm chưng muôn việc của người làm ra 
Kiên nhẫn khó xong mà dễ hỏng 
Cái chết đâu vẫn ngóng bên ngoài 
Thọ là ai, yểu là ai? 
Lão già, con trẻ vắn dài khác chi 
Nào đã biết ai đi tới đó? 
Bóng hào quang ai ngó sau cùng 
Sớm còn tối mất lẽ chung 
Vững chi cái mạng mà mong lâu dài 
Bóng cây này dẫu ai nghỉ mát 
Con cháu nhà có thoát đi đâu 
Như già có chí lo sau 
Cháu con ăn quả về lâu thiệt gì 
Ngẫm cái sướng phúc di vạn đại 
Ấy cũng là lão hái quả rồi 
Quý hồ còn sống ít hồi 
Một ngày là một được ngồi hưởng vui 
Cũng có lẽ Trời xui hiểm hóc 
Trên mồ bay Ác mọc lão nom 
Cụ già khéo nói chính môm: 
Một chàng qua bến ngã tòm xuống sông 
Còn một chàng lập công với nước 
Phải đầu tên mũi mác chết toi 
Cậu ba nhân lúc thư rồi 
Leo cây chiết giống sẩy rơi vỡ đầu 
Cụ già nghĩ đến câu chuyện thế 
Khắc phiến bia mà để bên mồ 
Gọi là một tiếng Ô hô!

(Nguồn: Ngụ ngôn La Phông Ten/ NXB Văn học, 1996)

Sói và cáo

Sói và cáo - Le loup et le renard

Mais d'où vient qu'au Renard Esope accorde un point? 
C'est d'exceller en tours pleins de matoiserie. 
J'en cherche la raison, et ne la trouve point. 
Quand le Loup a besoin de défendre sa vie, 
Ou d'attaquer celle d'autrui, 
N'en sait-il pas autant que lui? 
Je crois qu'il en sait plus; et j'oserais peut-être 
Avec quelque raison contredire mon maître. 
Voici pourtant un cas où tout l'honneur échut 
A l'hôte des terriers. Un soir il aperçut 
La Lune au fond d'un puits: l'orbiculaire image 
Lui parut un ample fromage. 
Deux seaux alternativement 
Puisaient le liquide élément: 
Notre Renard, pressé par une faim canine, 
S'accommode en celui qu'au haut de la machine 
L'autre seau tenait suspendu. 
Voilà l'animal descendu, 
Tiré d'erreur, mais fort en peine, 
Et voyant sa perte prochaine. 
Car comment remonter, si quelque autre affamé, 
De la même image charmé, 
Et succédant à sa misère, 
Par le même chemin ne le tirait d'affaire? 
Deux jours s'étaient passés sans qu'aucun vînt au puits. 
Le temps qui toujours marche avait pendant deux nuits 
Echancré selon l'ordinaire 
De l'astre au front d'argent la face circulaire. 
Sire Renard était désespéré. 
Compère Loup, le gosier altéré, 
Passe par là; l'autre dit: Camarade, 
Je veux vous régaler; voyez-vous cet objet? 
C'est un fromage exquis. Le dieu Faune l'a fait, 
La vache Io donna le lait. 
Jupiter, s'il était malade, 
Reprendrait l'appétit en tâtant d'un tel mets. 
J'en ai mangé cette échancrure, 
Le reste vous sera suffisante pâture. 
Descendez dans un seau que j'ai mis là exprès. 
Bien qu'au moins mal qu'il pût il ajustât l'histoire, 
Le Loup fut un sot de le croire. 
Il descend, et son poids, emportant l'autre part, 
Reguinde en haut maître Renard. 
Ne nous en moquons point: nous nous laissons séduire 
Sur aussi peu de fondement; 
Et chacun croit fort aisément 
Ce qu'il craint et ce qu'il désire.

Bản dịch : Đỗ Khắc Siêm, Hà Khắc Nguyện

Giếng hai thùng trục quay lên xuống 
Một đêm kia giữa tháng trăng ngời 
Vành tròn in đáy giếng khơi 
Cáo tưởng phó mát ngon xơi vội vàng 
Nhảy vô thùng đeo ngang miệng giếng 
Thùng nặng liền rời miệng tuột sâu 
Cầm bằng cái chết không lâu 
Cáo mong có một con nào như anh 
Cũng háu đói, cũng lầm phó mát 
Nhảy vào thùng, vổng nhắc Cáo lên 
Hai ngày sốt ruột như điên 
Không một con thú đến miền giếng khơi 
Thời gian qua, canh vơi nguyệt khuyết 
Chú Cáo ta chắc chết mười phần 
Bỗng nhìn thấy một Sói non 
Khát nước lui tới, dòm nom tìm tòi 
Cáo bảo Sói: "Bạn ơi tôi quyết 
Đãi bạn vàng bữa tiệc phô-ma 
Nhìn đây Sói thấy chăng là? 
Tròn tròn, ngon tuyệt, hai ta cùng dùng 
Chính Thượng đế khi không được khỏe 
Ngài xơi vào là dễ chịu ngay 
Vành ngoài tôi đã ăn đây 
Phần bánh còn lại anh xơi đủ mà 
Bước vô thùng, đại ca hãy xuống 
Đừng để chờ, mà luống công nhau" 
Ngay lòng Sói chẳng nghĩ sâu 
Bước vô thùng nặng làm cầu Cáo lên 

Ta thường cũng dễ tin như vậy 
Nhất là khi ta thấy lợi nhiều 
Hoặc khi ta sợ ta e!

(Nguồn: Ngụ ngôn La Fontaine, NXB Tân Văn, 1992)

Giấc chiêm bao của một người Mông Cổ

Giấc chiêm bao của một người Mông Cổ - Le songe d'un habitant du Mogol

Jadis certain Mogol vit en songe un Vizir 
Aux champs Elysiens possesseur d'un plaisir 
Aussi pur qu'infini, tant en prix qu'en durée; 
Le même songeur vit en une autre contrée 
Un Ermite entouré de feux, 
Qui touchait de pitié même les malheureux. 
Le cas parut étrange, et contre l'ordinaire: 
Minos en ces deux morts semblait s'être mépris. 
Le dormeur s'éveilla, tant il en fut surpris. 
Dans ce songe pourtant soupçonnant du mystère, 
Il se fit expliquer l'affaire. 
L'interprète lui dit: Ne vous étonnez point; 
Votre songe a du sens; et, si j'ai sur ce point 
Acquis tant soit peu d'habitude, 
C'est un avis des Dieux. Pendant l'humain séjour, 
Ce Vizir quelquefois cherchait la solitude; 
Cet Ermite aux Vizirs allait faire sa cour. 

Si j'osais ajouter au mot de l'interprète, 
J'inspirerais ici l'amour de la retraite: 
Elle offre à ses amants des biens sans embarras, 
Biens purs, présents du Ciel, qui naissent sous les pas. 
Solitude où je trouve une douceur secrète, 
Lieux que j'aimai toujours, ne pourrai-je jamais, 
Loin du monde et du bruit, goûter l'ombre et le frais? 
Oh! qui m'arrêtera sous vos sombres asiles! 
Quand pourront les neuf Soeurs, loin des cours et des villes, 
M'occuper tout entier, et m'apprendre des Cieux 
Les divers mouvements inconnus à nos yeux, 
Les noms et les vertus de ces clartés errantes 
Par qui sont nos destins et nos moeurs différentes! 
Que si je ne suis né pour de si grands projets, 
Du moins que les ruisseaux m'offrent de doux objets! 
Que je peigne en mes Vers quelque rive fleurie! 
La Parque à filets d'or n'ourdira point ma vie; 
Je ne dormirai point sous de riches lambris; 
Mais voit-on que le somme en perde de son prix? 
En est-il moins profond, et moins plein de délices? 
Je lui voue au désert de nouveaux sacrifices. 
Quand le moment viendra d'aller trouver les morts, 
J'aurai vécu sans soins, et mourrai sans remords.

Bản dịch : Đỗ Khắc Siêm, Hà Khắc Nguyện

Xưa kia có một người Mông Cổ 
Một đêm mơ thấy sự lạ thường 
Anh mơ anh đến thiên đường 
Thấy ông Tể tướng tinh thần ung dung 
Hưởng phúc lạc vẹn toàn vĩnh viễn 
Anh lại mơ anh đến cõi âm 
Thấy ông ẩn sĩ thọ hình 
Lửa bùng đốt cháy thân mình ghê sao! 
Phạm nhân khác thảy đều thương hại 
Hẳn Diêm Vương sai trái vụ này 
Ngạc nhiên người mộng tỉnh ngay 
Vội đi đến cậy ông thày giảng cho 
Ông thày bảo: "Lạ chi chuyện ấy 
Kinh nghiệm tôi từng thấy đã nhiều 
Thần linh cảnh cáo kẻ nào 
Tuy lòng giả dối, ra chiều thẳng ngay 
Ẩn mà đến khoanh tay cửa tướng 
Xin xỏ luôn không ngượng nghịu gì? 
Còn ông Tể tướng lại kỳ 
Tìm nơi thanh vắng để đi ẩn mình" 

Nếu tôi được phép trình ý mọn 
Khuyên mọi người ở ẩn an nhàn 
Đó là hồng phúc trời ban 
Phúc lành toàn vẹn, thế gian khôn tìm 
Cảnh thanh vắng, êm đềm, kín đáo 
Xa những nơi huyên náo tranh dành 
Xa nơi thành thị triều đình 
Nàng thơ sẽ đến cùng mình hoan ca 
Dạy ta cách thiên hà chuyển vận 
Mắt trần gian khó nhận hành trình 
Nêu hiệu lực các hành tinh 
Biết chúng tác động đời mình ra sao 
Nếu việc lớn tôi nào hiểu được 
Cũng cho tôi thưởng thức suối trong 
Hoa thơm cỏ dại bên dòng 
Tôi đem tô điểm mấy vần ngao nghêu 
Đời của tôi đừng thêu kim tuyến 
Ngủ chi trong cung điện huy hoàng 
Sao bằng một chiếc giường xoàng 
Ngủ nơi cô tịch nhẹ nhàng thú thay 
Cho đến lúc xuôi tay mãn số 
Nối gót người quá cố ra đi 
Sống không lo lắng điều gì 
Chết không hối hận những chi đã làm

(Nguồn: Ngụ ngôn La Fontaine, NXB Tân Văn, 1992)

Sư tử mẹ và gấu mẹ

Sư tử mẹ và gấu mẹ - La lionne et l'ourse

Mère Lionne avait perdu son fan. 
Un chasseur l'avait pris. La pauvre infortunée 
Poussait un tel rugissement 
Que toute la Forêt était importunée. 
La nuit ni son obscurité, 
Son silence et ses autres charmes, 
De la Reine des bois n'arrêtait les vacarmes 
Nul animal n'était du sommeil visité. 
L'Ourse enfin lui dit : Ma commère, 
Un mot sans plus ; tous les enfants 
Qui sont passés entre vos dents 
N'avaient-ils ni père ni mère ? 
- Ils en avaient. - S'il est ainsi, 
Et qu'aucun de leur mort n'ait nos têtes rompues, 
Si tant de mères se sont tues, 
Que ne vous taisez-vous aussi ? 
- Moi me taire ! moi, malheureuse ! 
Ah j'ai perdu mon fils ! Il me faudra traîner 
Une vieillesse douloureuse ! 
- Dites-moi, qui vous force à vous y condamner ? 
- Hélas ! c'est le Destin qui me hait. Ces paroles 
Ont été de tout temps en la bouche de tous. 
Misérables humains, ceci s'adresse à vous : 
Je n'entends résonner que des plaintes frivoles. 
Quiconque en pareil cas se croit haï des Cieux, 
Qu'il considère Hécube, il rendra grâce aux Dieux.

Bản dịch : Lê Trọng Bổng

Sư tử mẹ có con 
Bị thợ săn bắt mất 
Nó gầm rú như điên 
Cả rừng già nhức óc 
Rạn vỡ cả bóng đêm 
Rách toang màn tĩnh lặng 
Không có gì ngăn đặng 
Mồm nữ chúa sơn lâm 
Cả một vùng mất ngủ 
Gấu mẹ liền bảo mụ: 
"Chỉ xin hỏi một câu 
Bọn trẻ mà bấy lâu 
Bà đã từng nhai sống 
Đều không mẹ không cha?" 
"Có chứ, chúng có đấy" 
"Vậy mà không hề thấy 
Họ khóc lóc kêu la 
Thương con mình chết chóc 
Làm mọi người nhức óc 
Bao người mẹ không khóc 
Bà lặng tiếng được chăng?" 
"Ta lặng tiếng sao đang 
Thật khổ thân ta quá! 
Mất con rồi còn đâu 
Sẽ phải sống khổ đau 
Lê tuổi già tàn tạ!" 
"Nhưng có ai bắt bà 
Tự đoạ đày như vậy?" 
"Than ôi, Định mệnh đấy 
Định mệnh căm ghét ta" 
Một câu nói cửa miệng 
Suốt lớn bé trẻ già 
Thời nào cũng tuôn ra 

Hỡi nhân loại khốn khổ 
Hãy nghe ta nói đây 
Đã đày ắp tai này 
Bao lời than vô bổ 
Những ai đụng thương đau 
Mà than khóc kêu gào 
Nói Trời xanh căm ghét 
Hãy nhớ tới một người 
Hekabê (*) bất diệt 
Rồi sẽ cám ơn Trời

(*) Hekabe (tiếng Hy lạp: Ἑκάβη): hoàng hậu, vợ vua Priamos của thành Troy, có 19 người con với vua, trong đó nổi tiếng nhất là hoàng tử Hector, đã bị Archilles giết chết trong cuộc chiến thành Troy.

Người chăn cừu và nhà vua

Người chăn cừu và nhà vua - Le Berger et le Roi

Deux démons à leur gré partagent notre vie, 
Et de son patrimoine ont chassé la raison. 
Je ne vois point de coeur qui ne leur sacrifie. 
Si vous me demandez leur état et leur nom, 
J'appelle l'un Amour, et l'autre Ambition. 
Cette dernière étend le plus loin son empire; 
Car même elle entre dans l'amour. 
Je le ferais bien voir; mais mon but est de dire 
Comme un Roi fit venir un Berger à sa Cour. 
Le conte est du bon temps, non du siècle où nous sommes. 
Ce Roi vit un troupeau qui couvrait tous les champs, 
Bien broutant, en bon corps, rapportant tous les ans, 
Grâce aux soins du Berger, de très notables sommes. 
Le Berger plut au Roi par ces soins diligents. 
Tu mérites, dit-il, d'être Pasteur de gens; 
Laisse là tes moutons, viens conduire des hommes. 
Je te fais Juge Souverain. 
Voilà notre Berger la balance à la main. 
Quoiqu'il n'eût guère vu d'autres gens qu'un Hermite, 
Son troupeau, ses mâtins, le loup, et puis c'est tout, 
Il avait du bon sens; le reste vient ensuite. 
Bref, il en vint fort bien à bout. 
L'Hermite son voisin accourut pour lui dire: 
Veillé-je? et n'est-ce point un songe que je vois? 
Vous favori! vous grand! Défiez-vous des Rois: 
Leur faveur est glissante, on s'y trompe; et le pire 
C'est qu'il en coûte cher; de pareilles erreurs 
Ne produisent jamais que d'illustres malheurs. 
Vous ne connaissez pas l'attrait qui vous engage. 
Je vous parle en ami. Craignez tout. L'autre rit, 
Et notre Hermite poursuivit: 
Voyez combien déjà la cour vous rend peu sage. 
Je crois voir cet Aveugle à qui dans un voyage 
Un serpent engourdi de froid 
Vint s'offrir sous la main: il le prit pour un fouet. 
Le sien s'était perdu, tombant de sa ceinture. 
Il rendait grâce au Ciel de l'heureuse aventure, 
Quand un passant cria: Que tenez-vous, ô Dieux! 
Jetez cet animal traître et pernicieux, 
Ce Serpent. - C'est un fouet. - C'est un Serpent, vous dis-je. 
A me tant tourmenter quel intérêt m'oblige? 
Prétendez-vous garder ce trésor? - Pourquoi non? 
Mon fouet était usé; j'en retrouve un fort bon; 
Vous n'en parlez que par envie. 
L'aveugle enfin ne le crut pas; 
Il en perdit bientôt la vie. 
L'animal dégourdi piqua son homme au bras. 
Quant à vous, j'ose vous prédire 
Qu'il vous arrivera quelque chose de pire. 
- Eh! que me saurait-il arriver que la mort? 
- Mille dégoûts viendront, dit le Prophète Hermite. 
Il en vint en effet; l'Hermite n'eut pas tort. 
Mainte peste de Cour fit tant, par maint ressort, 
Que la candeur du Juge, ainsi que son mérite, 
Furent suspects au Prince. On cabale, on suscite 
Accusateurs, et gens grevés par ses arrêts. 
De nos biens, dirent-ils, il s'est fait un Palais. 
Le Prince voulut voir ces richesses immenses; 
Il ne trouva partout que médiocrité, 
Louanges du désert et de la pauvreté; 
C'étaient là ses magnificences. 
Son fait, dit-on, consiste en des pierres de prix. 
Un grand coffre en est plein, fermé de dix serrures. 
Lui-même ouvrit ce coffre, et rendit bien surpris 
Tous les machineurs d'impostures. 
Le coffre étant ouvert, on y vit des lambeaux, 
L'habit d'un gardeur de troupeaux, 
Petit chapeau, jupon, panetière, houlette, 
Et, je pense, aussi sa musette. 
Doux trésors, ce dit-il, chers gages, qui jamais 
N'attirâtes sur vous l'envie et le mensonge, 
Je vous reprends; sortons de ces riches Palais 
Comme l'on sortirait d'un songe. 
Sire, pardonnez-moi cette exclamation. 
J'avais prévu ma chute en montant sur le faîte. 
Je m'y suis trop complu; mais qui n'a dans la tête 
Un petit grain d'ambition?

Bản dịch : Nguyễn Trinh Vực

Trong đời ta có hai con quỷ 
Thay phiên nhau ngự trị lòng Người 
Chúng xua Lẽ phải ra ngoài 
Không ai thoát khỏi tay hai quỷ này? 
Có người hỏi: tên hai con quỷ? 
Em: ái tình; cô chị: tham lam! 
Cô này vì có tính tham 
Nên thường kiếm cớ lấn xâm Ái tình! 

Chuyện ngày xưa: bên thành Tây Trúc 
Có một chàng Du mục chăn cừu 
Đàn chiên mỗi tháng một nhiều 
Con nào con ấy, béo đều no nê! 
Dáng sạch sẽ, đi về trật tự 
Lãi hàng năm dự trữ khá cao! 
Vua cho đòi gã chăn cừu 
Rằng: "Anh xứng đáng vào triều giúp ta 
Phong anh làm quốc gia Thượng thẩm 
Nghề Chăn dân cũng lắm công phu 
Nhưng anh mưu trí cần cù 
Sẽ quen công việc, không lo ngại gì!" 
Từ biệt cừu, ra đi nhậm chức 
Tay cầm cân nảy mực công bình 
Bấy lâu ngoài chó, chiên lành 
Anh quen một vị Tu hành xuất gia 
Nhà Tu hành chạy qua góp ý: 
Sự thật sao? Mộng mị đó sao? 
Bỗng dưng chức trọng quyền cao 
Ngày nay anh đứng dầu Triều giúp Vua 
Phải cảnh giác: đắn đo sau trước 
Diều lên cao: sợ đứt dây lèo 
Đề phòng khi rớt hiểm nghèo 
Thạch Sùng, Vương Khải sớm chiều trắng tay! 
Ngày nay thế, ngày mai cũng thế 
Hãy coi chừng những kẻ ghen ăn! 
Chăn chiên nghe nói cười gằn: 
Tu hành tiếp: "Tôi phân vân nói nhiều! 
Nhưng với bạn mến yêu, nói tuốt 
Anh nghe tôi kể nốt chuyện này: 
Ông Mù đi đụng gốc cây 
Đánh rơi mất gậy, hai tay lần mò 
Sờ phải rắn chết co vì rét 
Tưởng khúc dây gấc chết vừa rơi 
Ông Mù vội cám ơn Trời 
Người qua đường thét: "Ông ơi, cầm gì? 
Bỏ ngay ra kẻo nguy với nó 
Ai lại cầm Rắn Hổ trong tay?" 
- Ta rơi gậy, được roi này! 
- Ông cứ cầm Rắn, chết ngay bây giờ! 
Mù ngoan cố vẫn chưa bỏ Rắn 
Tưởng người ra trêu hắn đùa vui 
Hổ mang hết cóng, sống rồi 
Nó tiêm một phát, thiệt đời Thong manh 
Tôi báo trước để anh liệu trước 
Càng lên cao, lúc trượt càng đau 
- Nhưng đâm lao, phải theo lao 
Rồi ra số phận làm sao thì làm! 

Tay anh trót nhúng chàm là dại 
Bon nịnh thần đồn đại ong ve: 
"Nào quan Thượng thẩm kéo bè 
Coi thường công lí, nể vì người thân!" 
Vua nghe nói phân vân, nghi hoặc 
Chúng bồi thêm: "Nói chắc việc này 
Một toà biệt thự mới xây 
Ba tầng lộng lẫy, trưng bày xa hoa! 
Vua thân hành điều tra việc ấy 
Xong mắt ngài chẳng thấy gì hơn? 
Gia tư vẫn thấy bần hàn 
Vẫn đời Du mục lang thang chiếc lều! 
Họ mật báo: "Trong nhiều hòm kín 
Đầy vàng mười, bạc nén, ngọc trai!" 
Nhà Vua mở hết hòm coi 
Vài quần áo rách, chiếc tơi chăn cừu! 
Cái mũ lá, ống thiều, ống sáo 
Một đôi giày "hài xảo" tự may! 
Của tôi chỉ có thế này: 
Là vật bảo đảm lòng ngay Chăn cừu! 
Ai ghen ghét nói điều vu cáo 
Cũng hết tài điên đảo trắng đen! 
Tôi xin về với đàn chiên 
Ra khỏi Cung điện, Chính quyền, Giàu sang! 
Tỉnh giấc mộng kê vàng là sướng 
Mong nhà Vua đại lượng sét soi: 
Tự nhiên bay bổng lên trời 
Tôi đã thấy trước sẽ rơi có ngày! 
Và giấc mộng ngày nay cũng vậy 
Bởi lòng tôi còn mảy may tham! 
Cho nên tay đã nhúng chàm: 
Từ nay Du mục xin cam Chăn cừu

(Nguồn: Thơ ngụ ngôn La Fontaine (tập hai), NXB Giáo dục, 2003)