Rừng và tiều phu - La forêt et le bûcheron
Un Bûcheron venait de rompre ou d'égarer
Le bois dont il avait emmanché sa cognée.
Cette perte ne put sitôt se réparer
Que la Forêt n'en fût quelque temps épargnée.
L'Homme enfin la prie humblement
De lui laisser tout doucement
Emporter une unique branche,
Afin de faire un autre manche.
Il irait employer ailleurs son gagne-pain;
Il laisserait debout maint chêne et maint sapin
Dont chacun respectait la vieillesse et les charmes.
L'innocente Forêt lui fournit d'autres armes.
Elle en eut du regret. Il emmanche son fer.
Le misérable ne s'en sert
Qu'à dépouiller sa bienfaitrice
De ses principaux ornements.
Elle gémit à tous moments:
Son propre don fait son supplice.
Voilà le train du Monde et de ses Sectateurs:
On s'y sert du bienfait contre les bienfaiteurs.
Je suis las d'en parler; mais que de doux ombrages
Soient exposés à ces outrages,
Qui ne se plaindrait là-dessus?
Hélas! j'ai beau crier et me rendre incommode:
L'ingratitude et les abus
N'en seront pas moins à la mode.
Bản dịch : Tú Mỡ
Tiều phu gãy mất cán rìu
Chữa xong cũng phải ít nhiều thời gian
Tạm thời Rừng đỡ bị choang
Tiều phu sau phải cố van vỉ lời:
"Rừng cho anh được thảnh thơi
Chỉ xin đẵn một cành thôi không nhiều
Cho anh thay cái cán rìu
Sẽ đi nơi khác liệu chiều sinh nhai
Để yên này bách này sồi
Mà người trân trọng vẻ tươi cỗi già"
Rừng ngay thật hóa ngây thơ
Nối giáo cho giặc, bây giờ hối sao!
Rìu kia nó lắp cán vào
Cái thằng bất nghĩa bụng nào tri ân
Dùng rìu tàn hại ân nhân
Bao nhiêu xanh tốt nay gần trụi trơ
Rừng đau không ngớt kêu la
Ngỡ mình làm phúc hóa ra tội mình
Chém cha thế thái nhân tình!
Làm ơn nên vạ, bất bình ai gây
Nói nhiều cũng mệt lắm thay
Cây cao bóng cả bị tay phũ phàng
Ai mà chẳng trách chẳng than?
Than ôi! kêu lắm chỉ mang lấy phiền
Quên ân nghĩa, phụ lòng hiền
Vẫn là thói tục bạc đen trên đời
(Nguồn: Ngụ ngôn chọn lọc La Fontaine, NXB Văn học, 1985)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét