瑤 瑟 怨
冰 簟 銀 床 夢 不 成
碧 天 如 水 夜 雲 輕
雁 聲 遠 過 瀟 湘 去
十 二 樓 中 月 自 明
溫 庭 筠
DAO SẮT OÁN
Băng điệm ngân sàng mộng bất thành
Bích thiên như thuỷ, dạ vân khinh
Nhạn lai viễn quá Tiêu Tương khứ
Thập nhị lâu trung nguyệt tự minh
Ôn Đình Quân
Chú thích :
Dao sắt: đàn sắt thường có ngọc dao nên gọi là dao sắt
Tiêu Tương: sông Tiêu và sông Tương chảy vào Động Đình hồ ở Hồ Nam
Thập nhị lâu: Hoàng Đế xây mười hai lầu đón thần tiên
Dịch nghĩa :
Bài thơ không để lộ một vẻ gì sầu oán, nhưng chăn chiếu lạnh, trăng sáng, ngủ không được, trời xanh như nước, mây đêm nhè nhẹ như bông, nhạn kêu qua sông. Bao nhiêu cảm giác, xúc động, tự nhiên mang đến cho người đọc một cảm giác buồn rầu, "có phải sầu vạn cổ" đấy không ? Ở đây đề bài có chữ "oán", chắc là có kẻ thứ haị Tự nhiên nhớ đến một tiếng hò ...
1. Chiếu lạnh giá giường (sáng như) ngân không ngủ được
2. Trời xanh đậm biếc như màu nước, mây đêm trôi nhẹ
3. Tiếng nhạn xa xa vọng quá mé sông Tiêu sông Tương
4. Trăng tự nhiên sáng (lạ lùng) bên mé Mười hai lầu
Dịch thơ : Vũ Văn Hiệu
Chiếu chăn giá lạnh mộng về đâu
Nước biếc trời xanh, mây nhẹ trôi
Tiêu Tương tiếng nhạn xa xa vọng
Lầu cũ trăng xưa vẫn ngóng chờ
Witter Bynner :
A cool-matted silvery bed; but no dreams....
An evening sky as green as water, shadowed with tender clouds;
But far off over the southern rivers the calling of a wildgoose,
And here a twelve-story building, lonely under the moon.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét