Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

Cảm ngộ - Trương Cửu Linh

感 遇 四 首 之 一

孤 鴻 海 上 來
池 潢 不 敢 顧
側 見 雙 翠 鳥
巢 在 三 珠 樹
矯 矯 珍 木 巔
得 無 金 丸 懼
美 服 患 人 指
高 明 逼 神 惡
今 我 遊 冥 冥
弋 者 何 所 慕

感 遇 四 首 之 二 

蘭 葉 春 葳 蕤
桂 華 秋 皎 潔
欣 欣 此 生 意
自 爾 為 佳 節
誰 知 林 棲 者
聞 風 坐 相 悅
草 木 有 本 心
何 求 美 人 折

感 遇 四 首 之 三 

幽 人 歸 獨 臥
滯 慮 洗 孤 清
持 此 謝 高 鳥
因 之 傳 遠 情
日 夕 懷 空 意
人 誰 感 至 精
飛 沈 理 自 隔
何 所 慰 吾 誠

感 遇 四 首 之 四 

江 南 有 丹 橘
經 冬 猶 綠 林
豈 伊 地 氣 暖
自 有 歲 寒 心
可 以 薦 嘉 客
奈 何 阻 重 深
運 命 惟 所 遇
循 環 不 可 尋
徒 言 樹 桃 李
此 木 豈 無 陰

張 九 齡

CẢM NGỘ I

Cô hồng hải thượng lai 
Trì hoàng bất cảm cố 
Trắc kiến song thuý điểu 
Sào tại tam châu thụ 
Kiểu kiểu trân mộc điên 
Đắc vô kim hoàn cụ 
Mỹ phục hoạn nhân chỉ 
Cao minh ức thần ác
Kim ngã du minh minh
Dặc giả hà sở mộ 

CẢM NGỘ II

Lan diệp xuân uy nhuy 
Quế hoa thu giảo khiết 
Hân hân thử sanh ý 
Tự nhĩ vi giai tiết 
Thuỳ tri lâm thê giả 
Văn phong toạ tương duyệt 
Thảo mộc hữu bổn tâm 
Hà cầu mỹ nhân chiết

CẢM NGỘ III

U nhân quy độc ngoạ 
Trệ lự tẩy cô thanh 
Trì thử tạ cao điểu 
Nhân chi truyền viễn tình 
Nhật tịch hoài không ý 
Nhân thuỳ cảm chí tinh 
Phi trầm lý tự cách 
Hà sở uỷ ngô thành

CẢM NGỘ IV

Giang nam hữu đan quất 
Kinh đông do lục lâm 
Khởi y địa khí noãn 
Tự hữu tuế hàn tâm 
Khả dĩ tiến gia khách 
Nại hà trở trùng thâm 
Vận mệnh duy sở ngộ 
Tuần hoàn bất khả tầm 
Đồ ngôn thụ đào lý 
Thử mộc khởi vô âm

Trương Cửu Linh

Chú thích :

hoàng: ao chứa nước 
thúy điểu: chim có lông màu xanh như ngọc phỉ thúy 
tam châu thụ: tên cây, hình như cây bá, lá có châu ngọc, theo điễn cũ nói ở ngoài biển rất xa ở nước thần tiên có ba cây châu thụ, ý chỉ chỗ tôn quý 
kiểu kiểu: vẻ cương, thẳng 
hoàn: đạn làm bằng kim loại 
cao minh: ý trong kinh Dịch, hào thượng là hào cao tột có cái địa vị rất nguy 
Minh minh: chỉ trên rộng rãi vô cùng 
Dặc giả: người săn bắn 
Uy nhuy: vẻ phồn thịnh 
Kiểu khiết: sáng và trong 
Hân hân: bồng bột mạnh mẻ 
Lâm thê: chỉ người ẩn sĩ trong rừng 
mỹ nhân: chỉ vua chúa hoặc người hiền 
Trệ lự: ưu phiền dồn chứa 
cao điểu: chỉ người quyền cao chức trọng 
Chí tinh: tinh thành đến cực điểm 
Phi trầm: lên xuống 
Giang nam: phía nam của Trường Giang gọi chung là Giang nam 
y: dùng như chữ "nó", chỉ Giang nam 
Tuế hàn tâm: chịu nóng lạnh 
trùng thâm: ý chỉ tiểu nhân núp trong bóng tối cản trở

Dịch nghĩa : 

Cảm ngộ (bài thứ nhất): Bốn câu đầu dùng "cô hồng" để tự ví với mình, thanh cao, tự thủ. Bốn câu tiếp nói tiểu nhân may mắn trên cao vị có biết sợ là gì. Hai câu cuối nói đến ý chí "minh triết bảo thân" của mình. 

1. Con chim lẻ bạn bay từ ngoài biển vào 
2. Nó bay đến chỗ ao chứa nước cũng không dám nhìn xuống 
3. Nhìn ngang qua thấy có đôi chim màu sắc rực rỡ xinh đẹp 
4. Làm tổ ở ba cây châu ngọc qúy giá 
5. Ngất ngưỡng ở tít trên cao những cây qúy ấy 
6. Không biết có sợ bị viên đạn vàng bắn mình chăng 
7. Những người ăn mặc đẹp đẽ còn sợ bị người khác chỉ trỏ phê bình 
8. Cư ở trên cao vị cũng phải sợ làm thần linh ghanh ghét 
9. Hiện giờ ta như cánh chim hồng cô độc kia bay khắp vùng trời xanh 
10. Những người thợ săn kia làm sao mà nhắm tới ta được nhĩ 

Cảm ngộ (bài thứ nhì): Đầu bốn câu mượn cảnh thảo vật phồn thịnh để bốn câu sau tả lòng mình tùy ngộ mà vui không chờ đến vua chúa mời mọc. 

11. Lá cây hoa lan đến mùa xuân mọc phồn thịnh 
12. Hoa quế đến mùa thu là nỡ rộ trong trắng và tinh khiết 
13. Cái kiểu sinh sôi bồng bột này 
14. Làm mỗi mùa một sắc thái đẹp đẽ 
15. Cũng có kẻ ẩn cư trong rừng sâu 
16. Gặp cảnh vật như vậy cũng ngồi vui với cảnh vật 
17. Thảo mộc tự có riêng tấm lòng 
18. Đâu cần chi đến người đẹp đến bẻ lấy đem về 

Cảm ngộ (bài thứ ba): Bốn câu đầu tả cảnh huống mình quy ẩn thanh caọ Bốn câu sau nói đến lòng quyến luyến ân tình cũ. 

19. Kẻ ẩn sĩ về nhà mình một mình nằm đánh giấc 
20. Đem phiền toái tẩy sạch sành sanh thành một người thanh cao 
21. Đem ý chí ấy báo với con chim đậu trên cao 
22. Nhờ nó đem tin đến nơi xa xôi 
23. Đêm ngày ôm trong lòng một chí hướng không tưởng 
24. Có ai cảm thông tình cảm chân thành này chăng 
25. Thì ra người trên cao người dưới thấp vốn là xa cách nhau 
26. Làm sao an ủi được lòng thành của ta nhĩ 

Cảm ngộ (bài thứ tư): Bốn câu đầu xưng tụng cây quýt có tính chịu lạnh. Bốn câu kế tiếp thán tiếc vì hoàn cảnh, tiểu nhân ngăn trở đành phải chịu không thi thố tài năng, hai câu cuối phê bình thế gian hiểu biết nông cạn. 

27. Giang nam có loại cây quýt màu hồng 
28. Đến mùa đông mà cành còn xanh tươi 
29. Có phải ở đấy khí hậu ấm áp đâu 
30. Thực sự là cây quýt ấy có tính chịu nóng lạnh 
31. Đem hiến cho khách quý được lắm đấy 
32. Khổ nổi bị ngăn cách bởi mấy tầng 
33. Vận mệnh mỗi người là do tùy mà gặp thôi 
34. Chứ lẽ tuần hoàn ai mà tìm hiểu cho thấu 
35. Người ta cho rằng cây chỉ quý có đào với lý 
36. Không lẽ cây quýt này không có tàng rợp bóng mát hay sao

Dịch thơ : Trần Trọng Kim

CẢM NGỘ I

Chiếc hồng ngoài bể bay về
Những nơi ao vụng dám hề ngó trông
Liếc đôi chim thúy vẫy vùng
Trên ba châu thụ ở cùng với nhau
Ngất ngơ trên ngọn cây châu
Chắc chi khỏi sợ đạn nào bắn tin
Cao minh thần ý ghét ghen
Sợ người chỉ trỏ vì khen tốt màu
Ta nay mù mịt tiêu dao
Dù ai săn bắn làm sao tới gần

Witter Bynner :

A lonely swan from the sea flies, 
To alight on puđles it does not deign. 
Nesting in the poplar of pearls 
It spies and questions green birds twain: 
"Don't you fear the threat of slings, 
Perched on top of branches so high? 
Nice clothes invite pointing fingers, 
High climbers god's good will defỵ 
Bird-hunters will crave me in vain, 
For I roam the limitless skỵ" 

Dịch thơ : Trần Trọng Kim

CẢM NGỘ II

Lá lan xanh mượt mùa xuân
Sạch trong hoa quế vào tuần gió thu
Thú vui sinh ý ngao du
Tự mình thuận tiết theo mùa gió trăng
Ai hay lan quế trong rừng
Thoảng nghe tiếng gió vui mừng đứng yên
Bản tâm cây cỏ tự nhiên
Cầu chi người quý mon men bẻ cành

Witter Bynner :

Tender orchid-leaves in spring 
And cinnamon-blossoms bright in autumn 
Are as self-contained as life is, 
Which conforms them to the seasons. 
Yet why will you think that a forest-hermit, 
Allured by sweet winds and contented with beauty, 
Would no more ask to-be transplanted 
Than Would any other natural flower? 

Dịch thơ : Trần Trọng Kim

CẢM NGỘ III

U nhân nằm lặng một mình
Nặng lòng những muốn thênh thênh mối sầu
Chút chi ngỏ với chim cao
Xa đưa cây có bao nhiêu nổi lòng
Ngày đêm tưởng nhớ luống công
Ai đâu cảm biết tấc lòng chí tinh
Bỗng chìm cách trở đã đành
Sao cho an ủy tấm thành của ta

Witter Bynner :

The hermit in his lone abode 
Nurses his thoughts cleansed of care, 
Them he projects to the wild goose 
For it to his distant Sovereign to bear. 
Who will be moved by the sincerity 
Of my vain day-and-night prayer? 
What comfort is for my loyalty 
When fliers and sinkers can compare ? 

Dịch thơ : Lê Khắc Tưởng

CẢM NGỘ IV

Cây quýt ở Giang nam
Mùa đông sao lá xanh
Chỗ ấy khí hậu ấm
Hay bởi lòng sắt son
Đem quýt dâng khách quý
Khổ nỗi trở bao tầng
Vận mệnh tùy mà gặp
Tuần hoàn chẳng thể tìm
Đào lý ai bảo quý
Quýt này có kém chăng

Witter Bynner :

Here, south of the Yangzi, grows a red orangetreẹ 
All winter long its leaves are green, 
Not because of a warmer soil, 
But because its' nature is used to the cold. 
Though it might serve your honourable guests, 
You leave it here, far below mountain and river. 
Circumstance governs destinỵ 
Cause and effect are an infinite cyclẹ 
You plant your peach-trees and your plums, 
You forget the shade from this other treẹ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét