Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Luân đài ca phụng tống Phong đại phu xuất sư tây chinh - Sầm Tham

輪臺歌奉送封大夫 出師西征 

輪 臺 城 頭 夜 吹 角
輪 臺 城 北 旄 頭 落
羽 書 昨 夜 過 渠 黎
單 于 已 在 金 山 西
戍 樓 西 望 煙 塵 黑
漢 兵 屯 在 輪 臺 北
上 將 擁 旄 西 出 征
平 明 吹 笛 大 軍 行
四 邊 伐 鼓 雪 海 湧
三 軍 大 呼 陰 山 動
虜 塞 兵 氣 連 雲 屯
戰 場 白 骨 纏 草 根
劍 河 風 急 雪 片 闊
沙 口 石 凍 馬 蹄 脫
亞 相 勤 王 甘 苦 辛
誓 將 報 主 靜 邊 塵
古 來 青 史 誰 不 見
今 見 功 名 勝 古 人

岑 參

LUÂN ĐÀI CA PHỤNG TỐNG PHONG ĐẠI PHU XUẤT SƯ TÂY CHINH

Luân đài thành đầu dạ xuy giác
Luân đài thành bắc mao đầu lạc
Vũ thư tạc dạ quá cừ lê 
Thiền vu dĩ tại kim sơn tây 
Thú lâu tây vọng yên trần hắc 
Hán binh truân tại luân đài bắc 
Thượng tướng ủng mao tây xuất chinh 
Bình minh xuy địch đại quân hành 
Tứ biên phạt cổ tuyết hải dũng 
Tam quân đại hô âm sơn động 
Lỗ tái binh khí liên vân truân 
Chiến trường bạch cốt triền thảo căn 
Kiếm hà phong cấp tuyết phiến khoát 
Sa khẩu thạch đống mã đề thoát 
Á tương cần vương cam khổ tân 
Thệ tướng báo chủ tĩnh biên trần 
Cổ lai thanh sử thuỳ bất kiến 
Kim kiến công danh thắng cổ nhân

Sầm Tham

Chú thích : 

1. Luân Đài, tên đất, đời Đường là một huyện, nay trong khu tự trị Tân Cương. 
2. Phong đại phu, tức Phong Thường Thanh, người đất Bồ châu, giữ chức ngự sử đại phu, phụng mệnh làm phó tướng trong đoàn quân tây chinh. 
3. Cừ Lê, tên đất, nay trong khu tự trị Tân Cương. 
4. Thiền Vu, âm Hung Nô, chỉ vua Hung Nô. 
5. Kim Sơn, tên núi; Âm Sơn, tên núi; Tuyết Hải, tên đất; Sa Khẩu, tên đất; Kiếm Hà, tên sông; đều ở gần Luân Đài. 

Dịch nghĩa :

Luân Đài ca phụng tống Phong đại phu xuất sư tây chinh 

Có tiếng tù và [báo canh] nơi đầu thành Luân Đài; 
sao Mao rơi ở mạn bắc thành này [báo hiệu Hung Nô sẽ thua].
Đêm qua có quân thư từ Cừ Lê mang tới; 
báo rằng chúa Thiền Vu đã tới phía tây núi Kim. 
Từ vọng canh thấy khói và bụi đen cả mạn tây, 
quân Hán đóng phía bắc Luân Đài. 
Thượng tướng có cờ mao chỉ huy cuộc tây chinh, 
sáng sớm truyền lệnh thổi kèn xuất quân. 
Trống đánh ở biên thùy phía tây rền vang Tuyết Hải; 
tiếng quân reo chấn động cả Âm Sơn. 
Về phía quân địch khí thế cũng lên tới mây; 
[đôi bên giao chiến] nơi chiến trường xương trắng bó trong gốc cỏ. 
Gió thổi gấp đưa tuyết đổ xuống vùng sông Kiếm bao la; 
núi đá ở Sa Khẩu đóng băng làm vó ngựa trơn trượt. 
Phó tướng [Phong đạo phu] vì ơn vua cam chịu gian khổ; 
thề tận trung báo quốc đem lại bình an cho vùng biên cảnh. 
Dã sử từ xưa ghi chiến công ai mà chẳng thấy? 
Nay ta thấy công danh [của Phong đại phu] hơn nguời xưa. 

Dịch thơ : Viên Thu - Nguyễn Minh

Bài ca kính tiễn Phong đại phu đi Luân Đài tây chinh 

Đêm Luân Đài tiếng ốc sang canh, 
Thấy ánh sao Mao lạc bắc thành. 
Quân tín Cừ Lê khuya trước báo, 
Thiền Vu đã đến núi Kim nhanh. 

Lầu thú vọng tây mờ khói bụi, 
Bắc Luân Đài, Hán đã dàn binh. 
Tây chinh thượng tướng cờ mao phất, 
Kèn thổi xuất quân lúc sáng tinh. 

Biên tái trống rền vang Tuyết Hải, 
Tiếng quân hò chấn động Âm Sơn. 
Địch binh khí thế tràn mây tận, 
Xương trắng sa trường gốc cỏ vương. 

Sa Khẩu đóng băng vó ngựa chờn, 
Kiếm Hà lộng gió tuyết sương lan. 
Vì vua phó tướng cam gian khổ, 
Báo quốc nguyện bình biên giới an. 

Sử xanh xưa chiến công còn đấy, 
Nay thấy người hơn hẳn cổ nhân. 

Dịch thơ : Nguyễn Phước Hậu 

Khuya khuắc Luân Đài vang tiếng ốc 
Luân Đài mạn bắc sao Mao rơi. 
Từ Cừ Lê thư đến đêm rồi 
Báo tây Kim Thiền Vu đã tới. 
Từ lầu canh bụi đen mịt khói 
Quân Hán dời đóng bắc Luân Đài 
Phất cờ mao thượng tướng chinh tây 
Sáng sớm thổi kèn quân xuất trận. 
Tuyết Hải tây biên vang dội trống 
Ba quân reo chấn động cả Âm sơn 
Giặc hung hăng khí thế tận mây vờn 
Xương trắng trận bó quanh gốc cỏ 
Sông Kiếm bao la gió tung tuyết đổ 
Sa Khẩu băng vó ngựa trượt trơn 

Đại phu chịu khổ báo ơn vua 
Thề giữ biên cương: giặc phải thua. 
Xưa sử ghi công ai chẳng thấy? 
Nay công Phó tướng vượt người xưa.

Witter Bynner :

On Wheel Tower parapets night-bugles are blowing, 
Though the flag at the northern end hangs limp. 
Scouts, in the darkness, are passing Quli, 
Where, west of the Hill of Gold, the Tartar chieftain has halted 
We can see, from the look-out, the dust and black smoke 
Where Chinese troops are camping, north of Wheel Tower. 
...Our flags now beckon the General farther west- 
With bugles in the dawn he rouses his Grand Army; 
Drums like a tempest pound on four sides 
And the Yin Mountains shake with the shouts of ten thousand; 
Clouds and the war-wind whirl up in a point 
Over fields where grass-roots will tighten around white bones; 
In the Dagger River mist, through a biting wind, 
Horseshoes, at the Sand Mouth line, break on icy boulders. 
...Our General endures every pain, every hardship, 
Commanded to settle the dust along the border. 
We have read, in the Green Books, tales of old days- 
But here we behold a living man, mightier than the dead.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét