Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Quan công Tôn Đại Nương Đệ tử vũ kiếm khí hành - Đỗ Phủ

觀公孫大娘弟子舞劍器行 

昔 有 佳 人 公 孫 氏
一 舞 劍 器 動 四 方
觀 者 如 山 色 沮 喪
天 地 為 之 久 低 昂
霍 如 羿 射 九 日 落
矯 如 群 帝 驂 龍 翔
來 如 雷 霆 收 震 怒
罷 如 江 海 凝 清 光
絳 唇 珠 袖 兩 寂 寞
晚 有 弟 子 傳 芬 芳
臨 潁 美 人 在 白 帝
妙 舞 此 曲 神 揚 揚
與 余 問 答 既 有 以
感 時 撫 事 增 惋 傷
先 帝 侍 女 八 千 人
公 孫 劍 器 初 第 一
五 十 年 間 似 反 掌
風 塵 澒 洞 昏 王 室
梨 園 子 弟 散 如 煙
女 樂 餘 姿 映 寒 日
金 粟 堆 前 木 已 拱
瞿 塘 石 城 草 蕭 瑟
玳 筵 急 管 曲 復 終
樂 極 哀 來 月 東 出
老 夫 不 知 其 所 往
足 繭 荒 山 轉 愁 疾

杜 甫

QUAN CÔNG TÔN ĐẠI NƯƠNG ĐỆ TỬ VŨ KIẾM KHÍ HÀNH

Tích hữu giai nhân công tôn thị 
Nhất vũ kiếm khí động tứ phương 
Quán giả như sơn sắc tự tang
Thiên địa vị chi cửu đê ngang 
Hoắc như nghệ xạ cửu nhật lạc
Kiểu như quần đế tham long tường 
Lai như lôi đình thu chấn nộ 
Bãi như giang hải ngưng thanh quang 
Giáng thần châu tụ lưỡng tịch mịch 
Vãn hữu đệ tử truyền phân phương 
Lâm dĩnh mỹ nhân tại bạch đế 
Diệu vũ thử khúc thần dương dương 
Dữ dư vấn đáp ký hữu dĩ 
Cảm thời phủ sự tăng oản thương 
Tiên đế thị nữ bát thiên nhân 
Công tôn kiếm khí sơ đệ nhất 
Ngũ thập niên gian tự phản chưởng 
phong trần hống động hôn vương thất 
Lê viên tử đệ tán như yên 
Nữ nhạc dư tư ánh hàn nhật 
Kim túc đôi tiền mộc dĩ củng 
Cù đường thạch thành thảo tiêu sắt 
Đại diên cấp quản khúc phục chung 
Lạc cực ai lai nguyệt đông xuất 
Lão phu bất tri kỳ sở vãng 
Túc kiển hoang sơn chuyển sầu tật 

Đỗ Phủ

Dịch nghĩa : Bài hành xem học trò của đại nương Công Tôn múa điệu kiếm khí 

Xưa có người đẹp họ Công Tôn, 
Mỗi lần múa điệu kiếm khí, bốn phương rung động. 
Người xem vững như núi cũng khiếp đảm. 
Trời đất theo nhịp múa mà lên cao xuống thấp. 
Sáng rực như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời, 
Vững vàng như các chúa tiên cỡi rồng lượn. 
Đến khi sấm sét thu hết cơn giận dữ, 
Dừng như sông bể đọng ánh sáng trong veo. 
Làm môi thắm, tay áo ngọc nay đã vắng tênh, 
Về già có cô học trò để truyền nghề. 
ấy là người đẹp xứ Lâm Dĩnh ở thành Bạch Đế. 
Múa khúc tuyệt diệu này, thần thái hiên ngang. 
Cùng ta trò chuyện trong chốc lát, 
Cảm thời thế nhiều ngang trái mà xót thương ! 
Thị nữ của tiên đế có tám nghìn người, 
Kiếm khí của Công Tôn đứng hàng đầu. 
Khoảng năm chục năm trôi qua tựa như trở bàn tay, 
Gió bụi tơi bời tối tăm cả cung vua. 
Đệ tử Lê viên tan tác như khói, 
Phong tư đội nữ nhạc chỉ còn ánh nắng lạnh lẽo. 
Trước gò Kim Túc, côi cối chầu hầu, 
Nơi thành đá Cù Đường, cỏ xác xơ buồn bã. 
Trên tiệc, khúc sáo dồn dập đã dứt 
Vui xong sinh buồn, trăng mọc trời đông. 
Già này chẳng biết sẽ đi về đâu, 
Chân chai lê trong núi hoang theo nỗi sầu. 

Dịch thơ : Nguyễn Phước Hậu 

Thuở xưa người đẹp họ Công Tôn 
Kiếm khí múa lên động bốn phương. 
Khán giả vững như non cũng khiếp 
Đất trời theo điệu múa quay cuồng. 
Chín mặt trời rơi tên Hậu Nghệ 
Vững vàng tiên chúa cỡi lưng rồng. 
Đến tựa thiên lôi thâu sấm sét, 
Dừng múa ánh quang tỏa biển sông. 
Tinh anh, nét ngọc đà xa vắng 
Về già có đệ tử truyền chân. 
Người đẹp xứ Lâm, thành Bạch Đế 
Múa chiêu thần thái rất phô trương. 
Cùng ta trò chuyện trong giây lát, 
Thời thế trái ngang lắm xót thương. 
Kiếm khí Công Tôn vào bậc nhất 
Tám ngàn thị nữ của tiên vương. 
Năm chục năm nhanh tay trở ngửa 
Gió bụi tơi bời tối điện cung. 
Đệ tử Lê viên tan khói tủa 
Nữ nhạc chỉ còn bóng lạnh lùng. 
Chầu hầu cây cối gò Kim Túc, 
Xác xơ thành đá chốn Cù Đường. 
Trên tiệc khúc tiêu dồn dập dứt, 
Vui xong buồn đến trăng đông phương. 
Già này chẳng biết về đâu nữa 
Lê lết chân chai khắp núi hoang. 

Dịch thơ : Nguyễn Tâm Hàn 

Công Tôn mỹ nữ thuở nào 
Uốn thân di động ào ào kiếm quang 
To gan khách cũng bàng hoàng 
Mây như lên xuống theo làn kiếm rung 
Rực như trời vỡ trước cung 
Vững như tiên đứng lưng rồng lượn mây 
Kiếm thu sấm sét dịu ngay 
Ánh quang còn toả lượn bay sông hồ 
Vẻ xưa … thoáng đấy … bây giờ 
Trời chiều còn đứa học trò truyền nhân 
Gái Bạch Đế , Lâm Dĩnh thôn 
Đường gươm tuyệt diệu, thần hồn hiên ngang 
Dăm câu trò chuyện cùng nàng 
Cảm thông thời thế trái ngang đau lòng 
Tám nghìn thị nữ trong cung 
Công Tôn thần kiếm đứng trong hàng đầu 
Năm mươi năm thật quá mau 
Cung vua cũng chịu biển dâu bụi mờ 
Người Lê viên biết đâu giờ 
Phong tư nữ nhạc mơ hồ lạnh tanh 
Gò Kim đôi cội buồn tênh 
Cỏ hoang xơ xác bên thành Cù xưa 
Hết rồi yến tiệc sáo đưa 
Vui, buồn nào khác trăng chưa tròn đầy 
Mình nào biết về đâu đây 
Lê thân rừng núi lòng dầy sầu lo 

Dịch thơ : Viên Thu 

Người đẹp Công Tôn tự thưở nào, 
Mỗi khi múa kiếm bốn phương xao. 
Kẻ xem tâm tựa non còn khiếp, 
Điệu múa làm trời đất đảo chao. 

Sáng tựa Nghệ săn chín mặt trời, 
Vững như tiên chúa cưỡi rồng bay. 
Đến dường sấm sét đầy cuồng nộ, 
Ngừng tợ biển sông lặng lẽ này. 

Người ngọc, má hồng nay đã vắng, 
Sau này còn đệ tử truyền chân. 
Mỹ nhân Bạch đế thành Lâm Dĩnh, 
Dáng vẽ hiên ngang múa xuất thần. 

Trò chuyện với nhau trong phút chốc, 
Cảm đời ngang trái, ngẫm thương đau. 
Tám ngàn thị nữ vua ngày trước, 
Kiếm khí đại nương tuyệt đứng đầu. 

Năm mươi năm tựa bàn tay trở, 
Gió bụi mờ vương cả điện vàng. 
Đệ tử Lê viên tan tựa khói, 
Dư âm đội múa lạnh tà dương. 

Trước gò Kim túc cây hiu hắt, 
Thành đá Cù đường cỏ lắt lay. 
Yến tiệc sáo đàn xưa đã dứt, 
Buồn như trăng tự cõi đông khai. 

Già này chẳng biết về đâu cả, 
Sầu muộn lê chân khắp núi đồi. 

Dịch thơ : Nguyễn Minh 

Người đẹp họ Công Tôn thủa trước 
Múa kiếm lên cả nước rung rinh 
Vững lòng như núi cũng kinh 
Đất trời cũng phải vị tình ngả nghiêng 
Sáng như Nghệ bắn văng vầng nhật 
Uyển chuyển như tiên đáp lưng rồng 
Tới như sấm sét bão bùng 
Ngưng như biển lặng sông trong hiền hòa 
Tài hoa mãi cũng ra mai một 
Học trò cưng sau rốt truyền nghề 
Nữ nhi Lâm Dĩnh quán quê 
Tới thành Bạch Đế diễn phô kiếm tài 
Câu hỏi đáp cùng người trao đổi 
Nhìn người nay thương tới người xưa 
Tám ngàn cung nữ của vua 
Công Tôn múa kiếm mới vừa long nhan 
Năm mươi năm như bàn tay lật 
Gió bụi nay phủ khắp cung rồi 
Lê Viên phường hát tàn phai 
Dư âm nữ nhạc còn nơi chiều vàng 
Gò Kim Túc cây hàng cung kính 
Cỏ xác xơ thành đá Cù Đường 
Tiệc hoa đàn sáo chợt ngưng 
Sau vui buồn đến, mặt trăng ló rồi 
Thân già về chẳng có nơi 
Chân chai núi vắng rã rời bước đi 

Witter Bynner :

On the 19th of the Tenth-month in the second year of Dali, I saw, in the house of the Kueifu official Yuante, a girl named Li from Lingying dancing with a dagger. I admired her skill and asked who was her teacher. She named Lady Gongsun. I remembered that in the third year of Kaiyuan at Yancheng, when I was a little boy, I saw Lady Gongsun dancẹ She was the only one in the Imperial Theatre who could dance with this weapon. Now she is aged and unknown, and even her pupil has passed the heyday of beautỵ I wrote this poem to express my wistfulness. The work of Zhang Xu of the Wu district, that great master of grassy writing, was improved by his having been present when Lady Gongsun danced in the Yeh district. From this may be judged the art of Gongsun. 

There lived years ago the beautiful Gongsun, 
Who, dancing with her dagger, drew from all four quarters 
An audience like mountains lost among themselves. 
Heaven and earth moved back and forth, following her motions, 
Which were bright as when the Archer shot the nine suns down the sky 
And rapid as angels before the wings of dragons. 
She began like a thunderbolt, venting its anger, 
And ended like the shining calm of rivers and the seạ... 
But vanished are those red lips and those pearly sleeves; 
And none but this one pupil bears the perfume of her fame, 
This beauty from Lingying, at the Town of the White God, 
Dancing still and singing in the old blithe waỵ 
And while we reply to each other's questions, 
We sigh together, sađened by changes that have comẹ 
There were eight thousand ladies in the late Emperor's court, 
But none could dance the dagger-dance like Lady Gongsun. 
...Fifty years have passed, like the turning of a palm; 
Wind and dust, filling the world, obscure the Imperial Housẹ 
Instead of the Pear-Garden Players, who have blown by like a mist, 
There are one or two girl-musicians now-trying to charm the cold Sun. 
There are man-size trees by the Emperor's Golden Tomb 
I seem to hear dead grasses rattling on the cliffs of Qutang. 
...The song is done, the slow string and quick pipe have ceased. 
At the height of joy, sorrow comes with the eastern moon rising. 
And I, a poor old man, not knowing where to go, 
Must harden my feet on the lone hills, toward sickness and despair.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét