Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Binh xa hành - Đỗ Phủ


兵 車 行 

車 轔 轔
馬 蕭 蕭
行 人 弓 箭 各 在 腰
耶 孃 妻 子 走 相 送
塵 埃 不 見 咸 陽 橋
牽 衣 頓 足 攔 道 哭
哭 聲 直 上 干 雲 霄
道 旁 過 者 問 行 人
行 人 但 云 點 行 頻
或 從 十 五 北 防 河
便 至 四 十 西 營 田
去 時 里 正 與 裹 頭
歸 來 頭 白 還 戍 邊
邊 亭 流 血 成 海 水
武 皇 開 邊 意 未 已
君 不 聞
漢 家 山 東 二 百 州
千 村 萬 落 生 荊 杞
縱 有 健 婦 把 鋤 犁
禾 生 隴 畝 無 東 西
況 復 秦 兵 耐 苦 戰
被 驅 不 異 犬 與 雞
長 者 雖 有 問
役 夫 敢 申 恨
且 如 今 年 冬
未 休 關 西 卒
縣 官 急 索 租
租 稅 從 何 出
信 知 生 男 惡
反 是 生 女 好
生 女 猶 得 嫁 比 鄰 
生 男 埋 沒 隨 百 草
君 不 見
青 海 頭
古 來 白 骨 無 人 收
新 鬼 煩 冤 舊 鬼 哭
天 陰 雨 濕 聲 啾 啾

杜 甫

BINH XA HÀNH

Xa lân lân
Mã tiêu tiêu
Hành nhân cung tiễn các tại yêu
Gia nương thê tử tẩu tương tống
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều
Khiên y đốn túc lạn đạo khốc
Khốc thanh trực thướng can vân tiêu
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân
Hành nhân đãn vân : điểm hành tần
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà
Tiện chí tứ thập tây doanh điền
Khứ thời lý chánh dữ khỏa đầu
Qui lai đầu bạch hoàn thú biên
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ
Quân bất văn :
Hán gia sơn đông nhị bách châu
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tây
Huống phục Tần binh nại khổ chiến
Bị khu bất dị khuyển dữ kê
Trưởng giả tuy hữu vấn
Dịch phu cảm thân hận
Thả như kim niên đông
Vị hưu Quan Tây tốt
Huyện quan cấp sách tô
Tô thuế tòng hà xuất
Tín tri sinh nam ác
Phản thị sinh nữ hảo
Sinh nữ do đắc giá tị lân
Sinh nam mai một tùy bách thảo
Quân bất kiến
Thanh Hải đầu
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu

Đỗ Phủ

Chú thích :

Hàm Dương kiều: cầu lớn trên sông Vị thủy ngoài thành Trường An 
Vũ Hoàng: ám chỉ Đường Huyền Tông 
Hán gia: ám chỉ nhà Đường 
Tần: Quan trung, nay là vùng Thiểm Tây 
Kim niên đông: tháng chạp năm Thiên Bảo thứ 9 (750) 
Quan Tây tốt: quân lính ở Quan Trung, còn bị đưa đi đánh Thổ Phồn 
Thanh Hải: ở phía đông bắc tỉnh Thanh Hải

Dịch nghĩa : 

Mượn lời người đi lính để nói rõ rõ ràng ràng đến thế thì thôị Những người nghe chỉ biết cứng miệng, thở than. 

1. Xe chạy ầm ầm 
2. Ngựa hí vang 
3. Người ra đi cung tiễn đều đeo bên lưng 
4. Cha mẹ vợ con đi đưa tiễn 
6. Níu áo, giậm chân, khóc lóc đầy đường 
7. Tiếng khóc than vang lên đến tầng mây cao 
8. Người đi đường qua đó hỏi kẻ ra đi 
9. Kẻ ra đi đáp rằng luôn có việc bắt lính 
10. Có người mới mười lăm tuổi đã đi phòng giữ Hoàng Hà phía bắc 
11. Đến bốn mươi tuổi thì đổi qua khai thác ruộng đất ở phía tây 
12. Khi ra đi viên lý trưởng cho chiếc khăn bịt đầu 
14. Ở biên thùy máu chảy thành nước sông nước biển 
15. Vũ Hoàng ý còn chưa muốn ngưng việc khai phá biên thùy 
16. Ông không nghe sao 
17. mé sơn đông nhà Hán gồm hai trăm châu 
18. Ngàn thôn vạn xóm gai góc mọc đầy 
19. Dầu có những người đàn bà khỏe mạnh vác nổi cây bừa 
20. Thì lúa mọc bừa bãi trên đồng ruộng cũng chẳng có được gì 
22. Bị lùa ra trận chẳng khác gì đàn chó bầy gà 
23. Ngài dù có thăm hỏi 
24. Nhưng lính xuất chinh này đâu dám tỏ hết nỗi oán hận 
25. Còn như mùa đông năm nay 
26. Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ 
27. Quan huyện hối thúc nộp thuế 
28. Thuế tô từ đâu mà ra (tiền thuế lấy đâu mà trả) 
30. Sinh con gái lại hóa hay 
31. Sinh con gái còn được gã chồng gần 
32. Sinh con trai chỉ tổ vùi thây trong đám cỏ 
33. Ngài thấy chăng 
34. Ở miền Thanh Hải 
35. Xưa đến giờ đống xương trắng không ai thu dọn 
36. Ma mới oán than ma cũ khóc lóc 
37. Trời đất âm u, mưa rơi rả rích, tiếng than rên rỉ

Dịch thơ : Nhượng Tống

Ngựa hát vang ! xe sình sịch chạy !
Lưng đeo cung ai nấy như nhau
Vợ con cha mẹ chạy sau
Bụi tung nhìn chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu vạt áo đón đường lăn lóc
Vọng tận trời tiếng khóc thảm thê
Qua đường khách hỏi việc chi
Người đi rằng: Chúng tôi đi ... đi hoài
Mười lăm tuổi ra ngoài quan ải
Ngoài bốn mươi sang tới đồn điền
Bạc đầu về lại thú biên
Lúc đi ông Lý đứng bên bịt đầu
Ngoài biên máu đỏ ngãu như bể
Nhà vua còn chưa nghỉ khai biên
Quan Đông làng xóm muôn nghìn
Hai trăm châu lẻ mọc liền chông gai
Dù gái khỏe có tài cày cuốc
Đầy đồng sao phá được cỏ đi
Quân Mường lại đánh rát ghê
Bị xua thôi có khác chi chó gà
Ông dẫu muốn hỏi ra manh mối
Tôi dám đâu cạn nỗi đắng cay
Tức như muà rét năm nay
Quân còn kéo tới Quan Tây ùn ùn
Quan huyện lại gấp dồn sưu thuế
Sưu thuế nào biết chẻ đâu ra
Sinh trai khổ mẹ khổ cha
Thà sinh con gái thế mà lại hay
Sinh gái được gã ngay lân cận
Sinh trai đành vùi lẫn cỏ cây
Chẳng đi ông chẳng có hay
Bể xanh trên bãi xương bày trắng phau
Chồng chất mãi ai nào nhặt hộ
Ma mới phiền ma cũ kêu oan
Những khi trời tối mưa tàn
Tiếng ma ti tỉ khóc than canh dài

Dịch thơ : Khương Hữu Dụng 

Xe rầm rầm, 
Ngựa hí râng, 
Người đi cung tên đeo bên lưng. 
Cha mẹ, vợ con chạy theo tiễn, 
Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương. 
Níu áo giậm chân, chặn đường khóc, 
Tiếng khóc xông lên thẳng chín tầng. 
Khách qua đường thấy, hỏi người đi, 
Người rằng :"Bắt đi những mấy kỳ. 
Lấy từ mười lăm giữ Hoàng Hà, 
Cho đến bốn mươi ra khẩn điền. 
Lúc đi ông lý quấn chỏm cho, 
Trở về đầu bạc lại đi liền. 
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ, 
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ. 
Há chẳng nghe nhà Hán, Sơn Đông hai trăm châu, 
Ngàn thôn muôn xóm ùn gai cỏ. 
Ví có đàn bà khoẻ cuốc cày, 
Lúa mọc tràn lan khắp bốn bề. 
Huống nữa quân Tần quen khổ chiến, 
Khác chi gà chó bị lùa đi. 
Thương tình, dù ông hỏi, 
Nỗi hờn đâu dám nói, 
Và mùa đông năm nay, 
Lính Quan Tây chưa nghỉ. 
Nhà vua bức đòi tô, 
Chạy đâu ra tô thuế ? 
Mới biết sinh con trai, 
Chẳng bằng sinh con gái. 
Sinh con gái còn được gả gần nhà, 
Sinh con trai lấp vùi theo cỏ dại ! 
Há chẳng thấy miền Thanh Hải kia sao ? 
Xưa nay xương trắng ai nhặt đâu ! 
Ma mới kêu oan, ma cũ khóc, 
Trời âm mưa thấm, tiếng hu hu!

Dịch thơ : Hoa Sơn 

Đoàn xa mã hí vang rầm rộ 
Quân sẵn sàng tên nỏ ngang lưng 
Vợ con tiễn biệt ven đường 
Cầu Hàm Dương khuất mờ trong bụi mù. 
Tay níu kéo thân nhân bịn rịn 
Tiếng khóc than bi tận mây xanh 
Dọc đường người hỏi quẩn quanh 
Lính rằng: biên ải quân hành đã đông. 
Mười lăm tuổi ngự phòng sông Bắc 
Còn bốn mươi sách cuốc khai hoang 
Trẻ đi, Lý (1) khoác khăn choàng 
Già về bạc tóc lại phòng biên cương. 
Sa trường máu chảy thành biển rộng 
Vũ Hoàng chưa thỏa mộng biên cương 
Hãy nhìn triều Hán Sơn Đông! 
Trăm châu, vạn xóm cỏ hoang mọc đầy. 
Nếu như có nữ nhân cày cuốc 
Ruộng đồng kia há được vuông tròn? 
Sang Tần binh lại khổ thân 
Tựa như kê khuyển từng đàn bị xua. 
Dù ngài có hỏi han cho rõ 
Nào dám đâu thổ lộ hận này 
Lại như đông bắc năm nay 
Quan-Tây lính vẫn bị đày viễn chinh. 
Bọn quan huyện gấp đòi sưu thuế 
Sưu thuế này há dể kiếm ra? 
Sanh trai dở thiệt, đúng là! 
Họa chăng sanh gái vậy mà lại hay! 
Sanh con gái gả gần thêm phước 
Sanh trai như cỏ mạt sa trường 
Thấy chăng Thanh Hải biên cương! 
Xưa nay mấy kẻ nhặt xương trắng tàn? 
Kìa ma cũ mới khóc than 
Mưa như tiếng nấc oan hồn tỉ tê. 

Dịch thơ : Nguyễn Tâm Hàn  

Ngựa hí lộng, xe sầm sập tiến 
Kẻ ra đi cung kiếm đeo lưng 
Người theo tiễn bước trập trùng 
Cầu Hàm Dương giữa bụi tung mịt mờ 
Tay níu kéo, miệng oà khóc thảm 
Giọng bi ai thăm thẳm đỉnh trời 
Khách ngang thăm hỏi đôi lời 
Thưa rằng chinh chiến bắt người tòng quân 
Trẻ mười lăm lãnh phần giữ nước 
Tuổi bốn mươi lo việc khẩn điền 
Khăn đầu cụ Lý quấn lên 
Tóc phai về tới, lệnh liền lại đi 
Máu biên ải thôi thì biển đỏ 
Mở cõi bờ vua bỏ ý đâu 
Thấy xưa, Hán cả trăm châu 
Ngàn thôn xóm bỏ rặt mầu cỏ hoang 
Dù nhi nữ kiếm đường cầy cuốc 
Chắc gì đâu hưởng được hoa mầu 
Vào Tần chinh chiến khổ đau 
Bị xua nào có khác đâu chó gà 
Khách quan hỏi cho ra lý lẽ 
Tôi dám đâu cặn kẽ tỏ bầy 
Nói chi, chỉ mới Đông này 
Bắt quân đổ hướng Quan Tây từng đoàn 
Lệnh sưu thuế đòi tràn bất kể 
Lấy đâu ra của để nộp đây 
Sinh trai thật lắm đắng cay 
Có con là gái họa may đỡ phiền 
Kiếm quanh quẩn xóm giềng gả bán 
Còn hơn trai vùi mạng sa trường 
Ngài hay, Thanh Hải biên cương 
Cốt xương lính ngập sa trường khắp nơi 
Oan hồn vất vưởng đầy trời 
Tỉ tê tiếng khóc ….sập sùi mưa giăng 

Dịch thơ : Nguyễn Phước Hậu 

Xe chạy ầm ầm ngựa hí vang 
Người đi cung tiễn thắt lưng ngang. 
Vợ con cha mẹ đưa từ biệt 
Chẳng thấy Hàm Dương,bụi mịt mùng. 
Khóc lóc đầy đường, níu áo, chân 
Tầng mây vang vọng tiếng than van 
Qua đường thăm hỏi người đi lính 
Người đáp: Bắt đi những mấy lần. 
Mười lăm tuổi giữ Hoàng hà bắc 
Bốn chục, qua tây khẩn ruộng nâu 
Đổi về lính thú khi đầu bạc 
Lý trưởng lúc đi giúp bịt đầu. 
Biên thùy máu chảy thành sông biển 
Ý muốn lấn biên chẳng bỏ đâu. 
Muôn xóm ngàn thôn gai góc mọc 
Sơn Đông nhà Hán mấy trăm châu. 
Túng bắt đàn bà vác cuốc bừa 
Ruộng đồng lúa lại mọc lưa thưa 
Bọn Tần đánh gấp quân ào ạt 
Chẳng khác chi gà chó bị xua. 
Ngài dù có hỏi đến đông này 
Oán hận dịch phu chẳng tỏ bày 
Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ 
Huyện quan hối thúc thuế thu ngay. 
Thuế tô giờ lấy ở đâu ra? 
Mới biết sinh trai xấu cả nhà! 
Sinh gái gả gần là tốt số 
Còn trai, thây vập chiến trường xa. 
Ở miền Thanh Hải thấy gì sao? 
Xương trắng xưa giờ có nhặt đâu 
Ma mới oán than, ma cũ khóc 
Mưa rơi, trời ám tiếng rầu rầu! 

Dịch thơ : Anh Nguyên 

Xe ầm ầm, ngựa hý vang, 
Người đi, cung nỏ, đã mang lưng rồi. 
Vợ con, cha mẹ, chẳng rời, 
Cầu Hàm, chẳng thấy, bụi thôi mịt mùng. 
Níu chân, kéo áo, chẳng ngừng, 
Khóc than vang đến mấy từng mây cao. 
Bên đường, khách hỏi xôn xao, 
Người đi chỉ đáp vị nào kiểm tra. 
Mười lăm, phòng bắc Hoàng-Hà, 
Đến khi bốn chục, cất nhà khẩn hoang. 
Lúc đi được cấp khăn quàng, 
Khi về, đầu bạc, vội vàng ra biên. 
Biên thuỳ, máu đổ triền miên, 
Vũ-Hoàng mở mãi vùng biên không ngừng. 
Anh nghe chăng: 
Sơn-Đông, trăm huyện ước chừng, 
Nghìn thôn, vạn ấp, mọc rừng cây gai. 
Cầy bừa, phụ nữ thay trai, 
Đông tây, lúa mọc chẳng ngay ngắn gì. 
Quân Tần nhẫn nại đuổi đi, 
Khiến cho bỏ chạy khác gì gà đâu. 
Bậc trên nếu hỏi đuôi đầu, 
Kẻ này dám nói một câu hận lòng. 
Mùa đông vừa mới đây xong, 
Quan-Tây, việc lính chưa mong trở về. 
Thuế, quan hối thúc vợ quê, 
Lấy đâu mà đóng thuế về cho quan. 
Bởi xui, nên mới sinh nam, 
Hên, sinh được nữ lo làm lo ăn. 
Nữ, còn gả lối xóm gần, 
Nam, trăm cây cỏ, vùi thân chốn nào! 
Miền Thanh-Hải, chẳng thấy sao, 
Xưa nay, xương trắng ai nào thâu đâu! 
Cũ và quỷ mới khóc sầu, 
Trời mưa mờ mịt, gió đâu ù ù... 

Dịch thơ : Viên Thu 

Xe rộn ràng, 
Ngựa hí vang. 
Người đi lưng nặng mang cung kiếm, 
Cha mẹ vợ con tiễn ngỡ ngàng. 
Bụi phả cầu Hàm dương khuất bóng, 
Ngăn chân níu áo, chặn bên đường. 

Nghe vang tiếng khóc ngàn mây vọng, 
Chạnh hỏi người đi, khách quá ngang. 
Họ bảo: Sung quân dường bất tận, 
Mười lăm, trẻ trấn bắc sông Hoàng. 

Bốn mươi tuổi đến tây khai ruộng, 
Ông Lý ngày đi tóc chít khăn. 
Đầu bạc trở về quan ải trấn, 
Biên cương máu tựa biển bao lần. 

Mộng vua vẫn mở mang bờ cỏi, 
Anh có nghe đời Hán, Sơn đông? 
Ở đấy hai trăm châu hẳn vậy, 
Ngàn thôn vạn xóm cỏ lau bồng. 

Ví như phụ nữ cày bừa khỏe, 
Lúa mọc bốn bề gặt có xong? 
Chi kể quân Tần quen khổ trận, 
Bị xua như chó má cùng không. 

Nếu ngài đang muốn hỏi, 
Nỗi hận dịch phu này. 
Đông chí năm nay đó, 
Quan tây lính trú đầy. 
Huyện đường đòi thuế má, 
Sưu nợ tính sao đây? 
Sinh lắm con trai khổ, 
Chi bằng gái hẳn hay. 
Gái gần, dù xuất giá, 
Trai chết, vùi cỏ cây. 

Anh không thấy bãi đầu Thanh hải? 
Xương trắng xưa nay chẳng kẻ hoài. 
Ma mới sầu hoang, ma cũ hận, 
Trời mưa dầm, tiếng khóc bi ai! 

Dịch thơ : Nguyễn Minh 

Xe chở lương người đun rầm rập 
Ngựa chở quan phóng gấp hí vang 
Người đi cung tiễn trên lưng 
Vợ con, cha mẹ bên đường tiễn đưa 
Bụi mù cầu Hàm Dương không thấy 
Họ níu chân giữ lại khóc than 
Đầy đường vang tiếng than van 
Âm thanh tới tận những làn mây cao 
Người qua đường hỏi sao đi vậy 
Đáp rằng sưu dịch lấy liên miên 
Mười lăm tuồi, đắp đê liền 
Bốn mươi khai phá ở miền tây hoang 
Lúc trở về chuyển sang lính thú 
Nơi biên thùy máu tụ thành sông 
Vũ hoàng vẫn chửa hài lòng 
Vẫn còn muồn mở mang vủng biên cương 
Hai trăm châu Sơn Đông nhà Hán 
Hàng ngàn làng vạn xóm gai đầy 
Đàn bà dẫu có cầy hay 
Lúa cằn thóc lép chẳng thay được chồng 
Lại nữa lính đất Tần chịu khổ 
Bị lùa đi như chó như gà 
Quan trên có hỏi qua loa 
Dich phu đâu dám kêu ca oán hờn 
Như năm nay tiết hàn vừa đến 
Lính Quan Tây chưa hạn được về 
Huyện quan thúc thuế vợ quê 
Lấy đâu mà đóng cho vừa lòng đây 
Nay mới biết sinh trai là xấu 
Sinh nữ nhi mới thật tốt hơn 
Nữ nhi gả bán gần thôn 
Trai theo chinh chiến xác chôn sa trường 
Ông thấy ở tuyến đầu Thanh Hải 
Xương trắng nơi quan ải dãi dầu 
Oan hồn than khóc canh thâu 
Tỉ tê thành tiếng âu sầu mưa đêm

Witter Bynner :

The war-chariots rattle, 
The war-horses whinnỵ 
Each man of you has a bow and a quiver at his belt. 
Father, mother, son, wife, stare at you going, 
Till dust shall have buried the bridge beyond Changan. 
They run with you, crying, they tug at your sleeves, 
And the sound of their sorrow goes up to the clouds; 
And every time a bystander asks you a question, 
You can only say to him that you have to gọ 
...We remember others at fifteen sent north to guard the river 
And at forty sent west to cultivate the campfarms. 
The mayor wound their turbans for them when they started out. 
With their turbaned hair white now, they are still at the border, 
At the border where the blood of men spills like the sea -- 
And still the heart of Emperor Wu is beating for war. 
...Do you know that, east of Chinás mountains, in two hundred districts 
And in thousands of villages, nothing grows but weeds, 
And though strong women have bent to the ploughing, 
East and west the furrows all are broken down? 
...Men of China are able to face the stiffest battle, 
But their officers drive them like chickens and dogs. 
Whatever is asked of them, 
Dare they complain? 
For example, this winter 
Held west of the gate, 
Challenged for taxes, 
How could they paỷ 
...We have learned that to have a son is bad luck- 
It is very much better to have a daughter 
Who can marry and live in the house of a neighbour, 
While under the sod we bury our boys. 
...Go to the Blue Sea, look along the shore 
At all the old white bones forsaken -- 
New ghosts are wailing there now with the old, 
Loudest in the dark sky of a stormy daỵ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét