Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Tây tái sơn hoài cổ - Lưu Vũ Tích

西 塞 山 懷 古 

王 濬 樓 船 下 益 州 
金 陵 王 氣 黯 然 收 
千 尋 鐵 鎖 沈 江 底 
一 片 降 旛 出 石 頭 
人 世 幾 回 傷 往 事 
山 形 依 舊 枕 寒 流 
從 今 四 海 為 家 日 
故 壘 蕭 蕭 蘆 荻 秋

劉 禹 錫

TÂY TÁI SƠN HOÀI CỔ

Vương Tuấn lâu thuyền há Ích châu
Kim Lăng vương khí ảm nhiên thâu
Thiên tầm thiết tỏa trầm giang để
Nhất phiến hàng phan xuất Thạch Dầu
Nhân thế kỹ hồi thương vãn sự
Sơn hình y cựu trầm hàn lưu
Tòng kim tứ hải vi gia nhật
Cố lũy tiêu tiêu lô dịch thu

Lưu Vũ Tích


Chú thích :

Tây tái sơn: tên núi, ở huyện Đại Trị, Hồ bắc. Tôn Sách đánh Hoàng Tổ ở đây 
Vương Tuấn: làm thứ sử Ích châu (thuộc Tứ Xuyên ngày nay), được vua Tấn vũ đế phái đi đánh nước Ngộ Quân Ngô giăng khóa xích sắt ở dưới sông để ngăn thuyền địch. Vương Tuấn thiêu hủy hết chướng ngại vật, rồi tiến quân thẳng tới thành Thạch Đầu (ở dưới núi Thạch Đầu, phía tây huyện Giang Ninh, Giang Tô)
Sách xưa chép rằng: Lưu Vũ Tích cùng Vị Sở Khách, Nguyên Chẩn đến chơi nhà Bạch Cư Dị; Trong tiệc rượu, bốn nhà thơ này ước hẹn mỗi người làm một bài thơ Kim Lăng hoài cổ. Sau khi Vũ Tích làm xong bài "Tây Tái sơn hoài cổ", Bạch Cư Dị thán phục nói: Trong bốn người đi kiếm loài ly long, bác đã bắt được ngọc châu trước, còn lại vẩy móng, thì dùng làm gì nữa! Rồi cả ba người đều thôi không làm tiếp 
Ích châu: giờ thuộc Tứ Xuyên 
Kim lăng: giờ là huyện Giang Ninh, Giang Tô 
Thạch Đầu: tên đất, sau phía núi Thạch Đầu, phía tây huyện Giang ninh, Giang Tô, giờ đã bỏ hoang

Dịch nghĩa : 

Bài thơ hoài cổ này thật trầm hùng, trầm thống mà hùng hồn, nhắc lại chuyện xưa chỉ thấy lòng thêm bồi hồi mà không thảm đạm ...

Lâu thuyền của Vương Tuấn đi xuống Ích châu 
Vương khí tại Kim Lăng ảm đạm tan rả 
Ngàn tầm khóa sắt chìm dưới đáy sông 
Một mảnh cờ hàng hiện ra ở thành Thạch Đầu 
Đời người biết bao nhiêu chuyện đau thương đã qua 
Hình thế núo non vẫn y nhiên gối lên dòng nước lạnh 
Từ nay là ngày bốn bể đều làm thành một nhà 
Trong lũy xưa xào xạc tiếng lau sậy đượm vẻ thu

Dịch thơ : Trần Trọng San

Vương Tuấn xuôi thuyền xuống Ích châu
Kim Lăng vương khí ủ ê rầu
Đáy sông chằng chịt giăng xiềng sắt
Cờ trắng lơ thơ ló Thạch Đầu
Nhân thế bao lần thương chuyện cũ
Hình non còn gối lạnh dòng sâu
Từ nay bốn bể nhà chung một
Lũ cũ lau thu tiếng xạc xào

Dịch thơ : Trần Trọng Kim

Ích châu Vương Tuấn thuyền lầu
Kim lăng vương khí một bầu mòn hao
Đáy sông dây sắt chìm sâu
Cờ hàng một lá Thạch đầu kéo lên
Người đời nhớ chuyện đau phiền
Núi sông như cũ kề liền không xa
Từ ngày bốn bể một nhà
Lũy xưa hiu quạnh lau già gió thu

Witter Bynner :

Since Wang Jun brought his towering ships down from Yizhou, 
The royal ghost has pined in the city of Nanjing. 
Ten thousand feet of iron chain were sunk here to the bottom -- 
And then came the flag of surrender on the Wall of Stonẹ... 
Cycles of change have moved into the past, 
While still this mountain dignity has commanded the cold river; 
And now comes the day of the Chinese world united, 
And the old forts fill with ruin and with autumn reeds.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét