Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Vãn thứ Ngạc Châu - Lô Luân

晚 次 鄂 州 

雲 開 遠 見 漢 陽 城 
猶 是 孤 帆 一 日 程 
估 客 晝 眠 知 浪 靜 
舟 人 夜 語 覺 潮 生 
三 湘 愁 鬢 逢 秋 色 
萬 里 歸 心 對 月 明 
舊 業 已 隨 征 戰 盡 
更 堪 江 上 鼓 鼙 聲

盧 綸

VÃN THỨ NGẠC CHÂU

Vân khai viễn kiến Hán Dương thành 
Do thị cô phàm nhất nhật trình 
Cô khách trú miên tri lãng tĩnh 
Chu nhân dạ ngữ giác triều sinh 
Tam Tương sầu mấn phùng thụ sắc 
Vạn lý quy tâm đối nguyệt minh 
Cựu nghiệp dĩ tùy chinh chiến tận 
Cánh kham giang thượng cổ bề thanh

Lô Luân

Chú thích :

Ngạc châu: tên đảo thời Đường, giờ là huyện Vũ Xương, Hồ Bắc 
Cô khách: khách thương buôn bán 
Tam Tương: Tương Đàm, Tương Âm, Tương Hương ở Hồ nam, có người nói Tiêu tương, Ly tương, Chưng tương

Dịch nghĩa : 

Sầu thân thế nhĩ; Tấm thân bơ vơ không nhà trong cảnh chiến tranh; Nằm ngủ ngày trên sông thật nói lên tình cảnh vô vị, tuy tả cảnh mà thật tả tình ...

Mây quang, xa xa trông thấy thành Hán Dương 
Nhưng còn một ngày thuyền nữa mới tới 
Khách ngủ ban ngày, biết là sóng lặng 
Bạn thuyền đêm nói chuyện, biết con nước về 
Ở Ba Tương (*) buồn bạc cả đầu, lại gặp cảnh thu tới 
Lòng mong về nhà xa xôi nghìn dặm, dãi cùng ánh trăng 
Cơ nghiệp cũ đã vì chiến tranh mà hết sạch 
Trên sông vẫn phải nghe tiếng trống trận ầm ầm

Dịch thơ : Khương Hữu Dụng

Vén mây xa thấy Hán thành dăng
Còn một ngày thuyền thẳng dặm băng
Khách sáng còn ngơi hay sóng lặng
Lái đêm mãi chuyện biết triều dâng
Tam Tương thu nhuốm sầu pha tóc
Muôn dặm lòng về sáng với trăng
Nhà cửa chiến tranh tàn phá hết
Trên sông trống trận hãy còn vang

Witter Bynner :

Far off in the clouds stand the walls of Hanyang, 
Another daýs journey for my lone sail.... 
Though a river-merchant ought to sleep in this calm weather, 
I listen to the tide at night and voices of the boatmen. 
...My thin hair grows wintry, like the triple Xiang streams, 
Three thousand miles my heart goes, homesick with the moon; 
But the war has left me nothing of my heritage -- 
And oh, the pang of hearing these drums along the river!

0 nhận xét:

Đăng nhận xét