別 房 太 尉 墓
他 鄉 復 行 役
駐 馬 別 孤 墳
近 淚 無 乾 土
低 空 有 斷 雲
對 棋 陪 謝 傅
把 劍 覓 徐 君
唯 見 林 花 落
鶯 啼 送 客 聞
杜 甫
BIỆT PHÒNG THÁI ÚY MỘ
Tha hương phục hành dịch
Trú mã biệt cô phần
Cận lệ vô can thổ
Đê không hữu đoạn vân
Đối kỳ bồi Tạ Truyện
Bả kiếm mịch Từ Quân
Duy kiến lâm hoa lạc
Oanh đề tống khách văn
Đỗ Phủ
Chú thích :
Phòng thái úy: tức là Phòng Quản, năm thứ hai Càn Nguyên, biếm làm Mân Châu thứ sử, năm thứ 2 Thượng Nguyên làm Tấn châu thứ sử, năm thứ 3 Bảo Ứng, bái hình bộ thượng thư, trên đường mắc bệnh, mất ở Lãng châu, truy tặng thái úỵ
Tạ truyện: Tấn Tạ An cùng cháu Tạ Huyền đánh cờ, mất truy tặng thái phó
Từ quân: Quý Trác đi sứ nước Tấn, qua nước Từ, biết Từ quân thích thanh bảo kiếm mình đeo, lúc đi sứ về thì Từ quân đã mất, bèn cởi kiếm treo trên cây cạnh mộ phần mà đị
Dịch nghĩa :
Hai câu đầu nói đến chuyện dừng chân phần mộ tiễn biệt, do đó mà lấy điển tích của Từ quân để nói lên giao tình thâm hậu giữa mình và Phòng Quản. Câu thứ 3 và 4 nói rõ ràng tình cảm mà không xài điển tích, nghe có lẽ xúc cảm chân thành hơn nhĩ
Tại dất khách quê người lại đi phó nhiệm tiếp nơi khác
(Ngang qua) dừng ngựa lại đây từ biệt phần mộ (Phòng thái úy)
Sát gần bên mộ lệ thủy thấm ướt không có chỗ đất nào khô ráo
Cuối khoảng không (xa xa) có mấy đám mây riêng rẽ
(Tôi và thái úy giao tình cũng như chuyện) Tạ Huyền cùng Tạ An đối cờ
(Và cũng như chuyện) Ngô đại phu treo kiếm trên mộ phần Từ quân
Chỉ thấy hoa trong rừng rơi rụng
Chim oanh kêu líu lo tiễn khách ra đi
Dịch thơ : Lê Nguyễn Lưu
Lại ra miền đất khách
Dừng ngựa giã cô phần
Mây ủ dăng trời thấp
Đất hoen ướt lệ gần
Đánh cờ hầu Tạ Truyện
Mang kiếm viếng Tạ Quân
Chỉ thấy hoa rừng rụng
Con oanh hót tiễn chân
Dịch thơ : Nguyễn Phước Hậu
Ta đi công cán đến quê người
Dừng ngựa giã từ mộ lẻ lọi.
Nước mắt nhạt nhòa bờ đất ướt
Vòm trời đứt đoạn đám mây trôi.
Mang gươm tìm viếng Từ Quân vắng
Bồi tiếp tượng kỳ Tạ Truyện thôi
Chỉ thấy hoa rừng rơi lả chả
Lặng nghe oanh hót tiễn đưa người.
Dịch thơ : Nguyễn Minh
Lại đi công tác vùng xa lạ
Dùng ngựa giã từ mộ bạn ta
Dòng lệ khôn ngăn rơi ướt đất
Đám mây lẻ lẻ chân trời xa
Hầu cờ Tạ Truyện tài nghiêng ngửa
Luận kiếm Từ Quân rốt cuộc hòa
Chỉ thấy hoa rừng rơi lác đác
Chim oanh như hót tiễn chào ta.
Dịch thơ : Anh Nguyên
Lại đi công vụ xa vời,
Nấm mồ đơn lẻ: ngựa, người đứng im.
Chưa khô, đất lệ còn in,
Bầu trời thấp xuống, mây liền tan đi.
Cờ, hầu Tạ-Truyện, có khi,
Từ-Quân, đến viếng, kiếm thì dắt lưng.
Thấy hoa rơi rụng trong rừng,
Nghe oanh tiễn khách vang lừng bên tai...
Dịch thơ : Viên Thu
Rời quê trở lại chốn biên quân,
Xe ngựa dừng chân biệt mộ phần.
Ướt đất,lệ tuôn dòng lả chả
Thấp trời,mây lướt giải phân vân.
Khắp nơi mang kiếm tìm Từ hữu,
Bao độ hầu cờ tiếp Tạ quân.
Chỉ thấy hoa rừng rơi phất phới,
Nghe chim tiễn khách hót ân cần.
Dịch thơ : Phan Ngọc
Đi hành dịch xa quê, tôi lại,
Dừng ngựa đây, xuống lạy mộ trơ.
Cúi đầu khóc nấm đất khô,
Ngửng lên mây bạc lững lờ ngừng bay.
Được hầu ngài bên cờ thủa nọ,
Kiếm giờ đây để đó tặng ai.
Rừng dày, hoa rụng tả tơi,
Oanh kêu tiễn khách bên tai gợi sầu.
Dịch thơ : Phạm Doanh
Quê người, vẫn lết chân,
Mộ vắng, ngựa tời gần.
Trời quang, đám mây tàn.
Đánh cờ tiếp Tạ phó,
Treo kiếm gửi Từ quân.
Chỉ thấy hoa rừng rụng,
Tiễn khách oanh hót ran.
Witter Bynner :
Having to travel back now from this far place,
I dismount beside your lonely tomb.
The ground where I stand is wet with my tears;
The sky is dark with broken clouds....
I who played chess with the great Premier
Am bringing to my lord the dagger he desired.
But I find only petals falling down,
I hear only linnets answering.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét