Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Khê cư - Liễu Tông Nguyên

溪 居 

久 為 簪 組 累
幸 此 南 夷 謫
閑 依 農 圃 鄰
偶 似 山 林 客
曉 耕 翻 露 草
夜 榜 響 溪 石
來 往 不 逢 人
長 歌 楚 天 碧

柳 宗 元

KHÊ CƯ

Cửu vi trâm tổ luỹ 
Hạnh thử nam di trích 
Nhàn y nông phố lân 
Ngẫu tự sơn lâm khách 
Hiểu canh phiên lộ thảo 
Dạ bảng hưởng khê thạch 
Lai vãng bất phùng nhân 
Trường ca sở thiên bích

Liễu Tông Nguyên

Chú thích :

Trâm tổ: trâm là cái mũ, tổ là cái dây thao buộc ấn của người làm quan thời xưa 
Bảng: là chèo thuyền đi lên

Dịch nghĩa : 

Trần trọng Kim: Tác giả làm quan phải trích ra làm thứ sử ở Liễu châu, thuộc tỉnh Quảng tây bây giờ, nên mới nói là Nam di 

Lâu ngày bị mũ áo quan hoạn thúc bó 
May được kỳ này đày về xứ rợ Nam 
Nhàn nhã có ruộng vườn bên cạnh làm láng giềng 
Ngẫu nhiên thành giống kẻ sống trong rừng núi 
Sáng sớm ra canh lật cỏ đầy sương lên 
Tối chèo thuyền vang động khe núi đá 
Qua lại không gặp ai 
Hát vang dài khắp trời xanh nước Sở

Bản dịch : Trần Trọng Kim 

Lâu đã bị trăm thao trói buộc 
May được đày đất thuộc Nam di 
Nhàn có vườn ruộng cạnh kề 
Không ngờ lại giống khách kia núi rừng 
Ngày ngày cỏ lật từng mảnh một 
Đêm chèo thuyền theo hút đá khe 
Gặp ai đâu lúc đi về 
Trong xanh trời Sở hát nghe một bài 

Witter Bynner :

I had so long been troubled by official hat and robe 
That I am glad to be an exile here in this wild southland. 
I am a neighbour now of planters and reapers. 
I am a guest of the mountains and woods. 
I plough in the morning, turning dewy grasses, 
And at evening tie my fisher-boat, breaking the quiet stream. 
Back and forth I go, scarcely meeting anyone, 
And sing a long poem and gaze at the blue skỵ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét