Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2015

Yên ca hành - Cao Thích


燕 歌 行 並 序 

漢 家 煙 塵 在 東 北 
漢 將 辭 家 破 殘 賊 
男 兒 本 自 重 橫 行 
天 子 非 常 賜 顏 色 
摐 金 伐 鼓 下 榆 關 
旌 旆 逶 迤 碣 石 間 
校 尉 羽 書 飛 瀚 海 
單 于 獵 火 照 狼 山 
山 川 蕭 條 極 邊 土 
胡 騎 憑 陵 雜 風 雨 
戰 士 軍 前 半 死 生 
美 人 帳 下 猶 歌 舞 
大 漠 窮 秋 塞 草 衰 
孤 城 落 日 鬥 兵 稀 
身 當 恩 遇 常 輕 敵 
力 盡 關 山 未 解 圍 
鐵 衣 遠 戍 辛 勤 久 
玉 筋 應 啼 別 離 後 
少 婦 城 南 欲 斷 腸 
征 人 薊 北 空 回 首 
邊 庭 飄 颻 那 可 度 
絕 域 蒼 茫 更 何 有 
殺 氣 三 時 作 陣 雲 
寒 聲 一 夜 傳 刁 斗 
相 看 白 刃 血 紛 紛 
死 節 從 來 豈 顧 勳 
君 不 見 沙 場 征 戰 苦 
至 今 猶 憶 李 將 軍

高 適

YÊN CA HÀNH

Hán gia yên trần tại đông bắc
Hán tướng từ gia phá tàn tặc
Nam nhi bản tự trọng hoành hành
Thiên tử phi thường tứ nhan sắc

Song kim phạt cổ hạ Du Quan
Tinh kỳ uy di Kiệt Thạch gian
Hiệu úy vũ thư phi hãn hải
Thiền Vu lạp hỏa chiếu Lang Sơn

Sơn xuyên tiêu điều cực biên thổ
Hồ kỵ bằng lăng tạp phong vũ
Chiến sĩ quân tiền bán tử sinh
Mỹ nhân trướng hạ do ca vũ

Đại mạc cùng thu tái thảo suy
Cô thành lạc nhật đấu binh hy
Thân đương ân ngộ thường khinh địch
Lực tận quan sơn vị giải vi

Thiết y viễn thú tân cần cửu
Ngọc trợ ưng đề biệt ly hậu
Thiếu phụ thành nam dục đoạn trường
Chinh nhân Kế Bắc không hồi thủ

Biên đình phiêu dao na khả độ
Tuyệt vực thương mang cánh hà hữu
Sát khí tam thời tác trận vân
Hàn thanh nhất dạ truyền điêu đẩu

Tương khan bạch nhận tuyết phân phân
Tử tiết tòng lai khởi cố huân 
Quân bất kiến sa trường chinh chiến khổ
Chí kim do ức Lý tướng quân

Cao Thích

Chú thích:

Yên ca hành: một khúc hát xưa, Yên bây giờ là khu vực tỉnh Hà Bắc 
Hán gia: nhà Hán, nhưng ám chỉ nhà Đường 
Du quan: Sơn Hải quan, ở huyện Lâm Du, tỉnh Hà Bắc 
Kiệt Thạch: tên núi, phía tây nam huyện Nhạc Đình tỉnh Hà Bắc 
Vũ thư: Xưa những công văn khẩn cấp đều có cài chiếc lông gà làm hiệu chạy hỏa tốc 
Hãn hải: sa mạc ở biên giới tỉnh Tuy Viễn 
Thiền vu: danh hiệu của vua Hung nô 
Lang san: núi Lang cư tư, miền tây bắc nội Mông cổ 
Thiết y: tức là khôi giáp 
Ngọc trợ: chỉ nước mắt 
Kế Bắc: miền bắc tỉnh Hà Bắc 
Điêu đẩu: đồ quân dụng bằng đồng, đựng được độ một đấu gạo, ngày dùng để nấu ăn, đêm gõ để cầm canh trong trại 
Lý tướng quân: chỉ Lý Mục, tướng nước Triệu, phá Hung Nô mười mấy vạn binh.

Dịch nghĩa : 

Bài thơ lúc đầu tả tướng quân hùng dũng dẫn binh ra ngoài biên tái dẹp giặc giúp vua cứu nước. Chinh chiến mòn mỏi một hồi đã thấy kiệt quệ và thấy sự vô lý của chiến tranh, cuối bài là một lời than vừa thê khổ mà vừa có tí hy vọng nhỏ bé sẽ kết thúc chiến tranh rất gần đâỵ 

1. Nhà Hán có loạn ở phía đông bắc 
2. Tướng nhà Hán từ giã gia đình đi dẹp giặc 
3. Người con trai vốn coi sự vẫy vùng là quan trọng 
4. Thiên tử cũng rất coi trọng vị tướng quân ấy 

5. Khua chiêng gióng trống đem quân xuống ải Du quan 
6. Cờ xí uốn lượn rợp vùng Kiệt Thạch 
7. Tin hỏa cấp từ hiệu úy gởi về sa mạc 
8. Ngọn lữa binh của vua Hung Nô chiếu rạng Lang sơn 

9. Sông núi khắp nơi đều tiêu điều 
10. Quân kỵ rợ Hồ tràn lan mọi nơi như mưa gió 
11. Người chiến sĩ ngoài trận tiền sống trong hoàn cảnh hiểm nghèo 
12. Người mỹ nữ trong trướng đang còn múa hát 

13. Sa mạc mênh mông cuối thu cỏ tàn tạ 
14. Thành trì cô độc trời lặn quân lính ít ỏi 
15. Thân đã trót mang ơn vua đành xem thường mang sống để chiến đấu 
16. Đã hết sức mình mà non nước chưa được giải vây 

17. Áo mũ giáp luôn suốt lâu nay đã tân khổ 
18. Từ hồi biệt ly đến bây giờ đã bao lần nước mắt lả chả 
19. Phía nam người vợ trẻ buồn rầu muốn đứt ruột 
20. Phía bắc người chinh nhân quay đầu lại chẳng biết làm sao được 

21. Ngoài biên tái xa xôi làm sao mà được gặp nhau 
22. Chốn xa thẳm bao la còn có gì đâu 
23. Trong ba mùa sát khí đằng đằng kết thành từng trận mây giăng 
24. Tiếng kiềng vang lên trong đêm vắng lạnh lẽo 

25. Nhìn nhau trên ngọn dáo máu (tuyết) rơi lất phất 
26. Xưa nay đã vì tiết nghĩa thì có để ý gì đến huân công 
27. Bạn không thấy sao! chinh chiến ngoài sa trường biết bao là khổ nhọc 
28. Đến nay như còn nhớ đến Lý tướng quân (mong sao dẹp giặc về quê hương)

Dịch thơ : Trần Trọng San

Khói bụi nhà Hán mờ đông bắc
Tướng Hán rời nhà đi dẹp giặc
Nam nhi vốn trọng chí tung hoành
Cửu trùng đặc biệt ban nhan sắc

Chiêng khua trống gióng xuống Du quan
Kiệt Thạch tinh kỳ phấp phới sang
Vũ thư hiệu úy bay hãn hải
Lửa săn chúa mọi chiếu Lang san

Núi sông xơ xác miền biên tái
Ngựa rợ hung hăng trong gió mưa
Trước quân lính chiến đầy nguy hiểm
Dưới trướng cô nàng vẫn múa ca

Sa mạc tàn thu cỏ úa gầy
Thành cô quân ít nắng chiều gay
Mình mang ơn chúa coi thường giặc
Sức hết quan san chưa giải vây

Gian khổ biên thùy mảnh áo nhung
Chia ly đủa ngọc chắc tuôn ròng
Bên thành thiếu phụ lòng như xé
Kế Bắc chinh phu vẫn ngoảnh trông

Xa thẳm biên đình đến được sao
Bao la tuyệt vực có chi nào
Ba mùa sát khí xông mây trận
Lạnh lẽo đêm đêm tiếng mõ sầu

Lấp lóa gươm đao tuyết trắng ngần
Xá gì công trạng tiếc chi thân
Thấy chăng chiến địa đầy gian khổ
Còn nhớ xưa kia Lý tướng quân

Dịch thơ : Nguyễn Bích Ngô

Nhà Hán giặc tràn vào đông bắc
Tướng Hán giã nhà đi giết giặc
Nam nhi vốn trọg chí tung hoành
Thiên tử vui mừng rạng nhan sắc

Quân xuống cửa Du chiêng trống vang
Kéo qua núi Kiệt cờ rợp đường
Lệnh quân khẩn cấp qua biển cát
Khói lửa Thiền vu rực núi Lang

Non sông xơ xác khắp biên thổ
Quân Hồ phi ngựa như mưa gió
Chiến sĩ ra trận nửa tử sinh
Mỹ nhân dưới trướng còn hát múa

Sa mạc cuối thu rụi cỏ cây
Biên thành chiều tối quân ít thay
Thân chịu ơn trên khinh lũ giặc
Kiệt sức quan san chưa giải vây

Áo sắt trấn xa gian khổ miết
Lệ ngọc tuôn rơi sầu ly biệt
Thiếu phụ thành nam nhớ dàu dàu
Chinh phu Kế Bắc buồn da diết

Dễ đâu tới được chốn biên đình
Cỏi vắng hoang lương không kể xiết
Ba mùa sát khí tựa mây đùn
Suốt đêm lạnh lùng mõ canh thét

Cùng nhìn lưỡi kiếm tuyết bay tung
Xưa nay tử tiết há hòng công
Ngươi thấy chăng sa trường chinh chiến khổ
Đến nay còn nhớ Lý anh hùng

Dịch thơ : Nguyễn Phước Hậu

Đời nhà Hán loạn tràn đông bắc 
Tướng giã nhà dẹp giặc lên đường 
Đức vua đẹp dạ khác thường 
Trai tài hăng hái chiến trường ruỗi dong 

Nổi chiêng trống Du Quan thẳng tiến 
Hàng cờ bay vùng Kiệt ra uy 
Cát tung hiệu úy đưa thư 
Lang Sơn sáng rực, Thiền Vu lửa hồng 

Ôi xơ xác non sông cảnh giới 
Đoàn kỵ Hồ cỡi gió xông lên 
Tử sinh chiến sĩ trận tiền 
Mỹ nhân dưới trướng còn triền miên ca 

Bãi cát rộng thu già cỏ úa 
Vây thành xưa bóng xế quân thưa 
Khinh thường vì hưởng ân vua 
Lực cùng giải ải mà chưa thoát vòng. 

Kẻ áo sắt xung phong gian khổ 
Sau chia tay, lệ đỗ chứa chan 
Đoạn trường thiếu phụ thành nam 
Chinh phu Kế Bắc dặm ngàn hoài hương 

Đâu thể đến biên cương lửa rực 
Có còn gì tuyệt vực mù khơi 
Ba mùa sát khí mây trời 
Tiếng điêu đẩu lạnh chơi vơi đêm dài 

Cùng nhìn gươm tuyết bay ủ rủ 
Quản công người tử thủ còn đây 
Nhớ ơn tướng Lý đến nay 
Thấy chăng chiến sĩ xả thây sa trường ? 

Dịch thơ : Hoa Sơn 

Đông bắc Hán triều tung gió bụi 
Từ giã quê tướng soái lên đường 
Chí trai thường thích vẫy vùng 
Vua tôi hoan hỉ sẵn lòng thưởng ban. 

Nổi chiêng trống Du Quan tiến bước 
Rợp tinh kỳ Kiệt Thạch đóng nhanh 
Quá quan khẩn báo quân tình 
Thuyền Vu tướng đã công thành Lang Sơn. 

Miền khổ tận nước non biên giới 
Vó ngựa Hồ xốc tới bão giông 
Chiến binh một nửa thương vong 
Mỹ nhân dưới trướng vẫn trong vui đùa. 

Cỏ đại mạc cuối thu tàn héo 
Chiều cô thành quan thiếu, lính thưa 
Xông pha đền đáp ơn vua 
Sức cùng lực tận vẫn chưa đột vòng. 

Chàng Kế Bắc vùi trong kham khổ 
Thiếp thành Nam lệ đổ ủ ê 
Chiến chinh nào mấy ai về? 
Biên cương vời vợi sơn khê dậm nghìn. 

Làm sao tới được miền biên ải? 
Loạn ba mùa mờ khói thức mây 
Mõ khuya điểm lạnh canh chầy 
Gươm đao lấp loáng, tuyết bay lạnh lùng. 

Vì tiết nghĩa, kể chi công! 
Sa trường ai biết chất chồng gian truân? 
Nhớ xưa có Lý tướng quân. 

Dịch thơ : Nguyễn Tâm Hàn

Lửa binh dậy ngập bắc đông 
Hán quân lưng ngựa ra vùng biên cương 
Trai tài xông xáo chiến trường 
Khí hùng được đấng quân vương nể vì 

Trực Du Quan tiến thẳng đi 
Khắp vùng Kiệt Thạch quân kỳ tung mây 
Hiệu lông gà chạy như bay 
Thiền Vu lửa lệnh soi đầy Lang Sơn 

Khắp nơi xơ xác điêu tàn 
Ngựa Hồ xông xáo như làn gió giông 
Trận tiền sống chết như không 
Ca nhi múa tiễn anh hùng vui say 

Ải quan Thu lá rụng đầy 
Thành trơ, quân vắng trời Tây xuống dần 
Ân vua chẳng ngại việc quân 
Lực tàn ải vẫn chưa phần giải vây 

Chiến chinh ròng rã bao ngày 
Giọt sầu ly biệt đến nay đã tường 
Nam thành thiếu phụ đoạn trường 
Người đi Kế Bắc đau thương trông về 

Dễ gì tới chốn sơn khê 
Vực sâu rừng thẳm tứ bề quạnh hiu 
Mây trời tử khí vương theo 
Cầm canh tiếng mõ vọng đều suốt đêm 

Ánh gươm giữa tuyết đổ rền 
Chấp hành quân lệnh mà quên thân mình 
Thấy chăng chinh chiến tội tình 
Vẫn thương Lý tướng lừng danh một thời 

Dịch thơ : Anh Nguyên 

Hán triều, đông bắc chiến tranh, 
Lìa nhà, tướng Hán dứt tình ra đi. 
Tung hoành ấy chí nam nhi, 
Mặt rồng hoan hỷ, ít khi ơn này. 

Khắp trời Kiệt-Thạch cờ bay, 
Chiêng kêu, trống giục, ra ngay ải đầu. 
Lệnh quân, sa mạc, truyền mau, 
Thiền-Vu, lửa chiếu tuyến đầu Lang-Sơn. 

Non sông buồn bã, căm hờn, 
Ngựa Hồ giày xéo, mưa tuôn, gió gào. 
Trận tiền chết nửa, thương sao! 
Mỹ nhân dưới trướng buồn nào!...múa ca!... 

Biên thuỳ tàn tạ cỏ hoa, 
Chiến binh thấy vắng, chiều tà thành cô. 
Ơn vua, coi nhẹ giặc Hồ, 
Thâu hồi biên ải, cơ đồ chưa xong. 

Giáp binh, cay đắng nén lòng, 
Biệt ly, tiếng sáo vang trong đêm trường. 
Thành Nam thiếu phụ sầu thương, 
Chiến binh Kế-Bắc, ai đường trở lui. 

Gió biên qua chẳng nổi rồi, 
Mênh mang, lại chuyện ở nơi đất cùng. 
Mịt mờ sát khí mây lồng, 
Lạnh lùng, hiệu lệnh truyền trong đêm trường. 

Kìa xem dao tắm máu hường, 
Nào ai tử tiết, huân chương mong chờ. 
Chiến trường đau khổ, thấy chưa! 
Tướng quân họ Lý, vẫn chưa quên nào!... 

Dịch thơ : Viên Thu 

Đông bắc Hán gia khói bụi lồng, 
Biệt nhà, Hán tướng diệt thù chung. 
Tung hoành chiến trận tài trai trọng, 
Chúa thượng hằng tâm đãi ngộ cùng. 

Kéo xuống Du Quan chiêng trống dậy, 
Lượn vòng Kiệt Thạch phướng cờ trương 
Lệnh quân Hiệu úy phi cồn cát, 
Lửa chúa Thiền vu sáng núi Lang. 

Non nước xác xơ dài trận chiến, 
Kỵ Hồ ngang dọc tựa mưa giông. 
Sa trường binh sĩ vùi sinh tử, 
Quân trướng giai nhân hát lạ lùng. 

Biển cát cuối thu tàn cỏ ải, 
Thành chiều xế nắng vắng quân chinh. 
Tình vua ân đãi nên khinh địch, 
Ải núi lực tàn khó giải binh. 

Đằng đẳng chiến bào ngầm hiểm trở, 
Nhạt nhòa lệ ngọc hận chia xa. 
Thành nam thiếu phụ sầu đau dạ, 
Kế bắc chinh phu tưởng nhớ nhà. 

Thăm thẳm biên đình nào đến được, 
Mịt mùng lũng vực có còn không. 
Ba mùa sát khí bồng kinh hải, 
Mỗi tối mõ quân điểm lạnh lùng. 

Vung kiếm nhìn nhau ngời tuyết sáng, 
Xưa rày công tuẩn tiết nào mong. 
Anh không thấy chiến trường gian khổ? 
Nay vẫn nhớ hoài Lý tướng công. 

Dịch thơ : Nguyễn Minh 

Đông bắc Hán ngập tràn lửa trận 
Tướng lìa nhà rửa hận xâm lăng 
Thân trai chiến địa xung phong 
Đức vua nhìn xuống mặt rồng hân hoan 

Chiêng trống nổi Du quan thẳng tiến 
Cờ xí bay non Kiệt lượn quanh 
Quân thư Hãn Hải chuyển nhanh 
Thiền Vu lửa trại non Lang sáng ngời 

Cảnh xác xơ ở nơi biên giới 
Kỵ binh Hồ lui tới như bay 
Chiến binh lâm trận bỏ thây 
Mỹ nhân dưới trướng vẫn say hát hò 

Sa mạc thu cỏ khô héo úa 
Nơi cô thành lính có vài tên 
Quên mình đền đáp ơn trên 
Lực tàn quan ải vẫn còn bị vây 

Kẻ giáp sắt lâu ngày gian khổ 
Giọt lệ buồn từ độ quân tòng 
Thành nam thiếu phụ đau lòng 
Chinh phu Kế Bắc ngoái trông nhớ nhà 

Chốn biên đình cõi xa đến khó 
Vực thẳm sâu nào có gì đâu 
Ba mùa sát khí dãi dầu 
Lạnh lùng tiếng mõ canh thâu điểm đều 

Gươm tuốt trần cùng nhìn gió tuyết 
Xưa tới nay tử tiết được gì ? 
Thấy chăng chiến sĩ gian nguy 
Gương xưa tướng Lý còn ghi nhắc hoài

Witter Bynner :

In the sixth year of Kaiyuan, a friend returned from the border and showed me the Yan Song. Moved by what he told me of the expedition, I have written this poem to the same rhymes. 

The northeastern border of China was dark with smoke and dust. 
To repel the savage invaders, our generals, leaving their families, 
Strode forth together, looking as heroes should look; 
And having received from the Emperor his most gracious favour, 

They marched to the beat of gong and drum through the Elm Pass. 
They circled the Stone Tablet with a line of waving flags, 
Till their captains over the Sea of Sand were twanging feathered orders. 
The Tartar chieftain's hunting-fires glimmered along Wolf Mountain, 

And heights and rivers were cold and bleak there at the outer border; 
But soon the barbarians' horses were plunging through wind and rain. 
Half of our men at the front were killed, but the other half are living, 
And still at the camp beautiful girls dance for them and sing. 

...As autumn ends in the grey sand, with the grasses all withered, 
The few surviving watchers by the lonely wall at sunset, 
Serving in a good cause, hold life and the foeman lightlỵ 
And yet, for all that they have done, Elm Pass is still unsafẹ 

Still at the front, iron armour is worn and battered thin, 
And here at home food-sticks are made of jade tears. 
Still in this southern city young wives' hearts are breaking, 
While soldiers at the northern border vainly look toward homẹ 

The fury of the wind cuts our men's advance 
In a place of death and blue void, with nothingness ahead. 
Three times a day a cloud of slaughter rises over the camp; 
And all night long the hour-drums shake their chilly booming, 

Until white swords can be seen again, spattered with red blood. 
...When death becomes a duty, who stops to think of famẻ 
Yet in speaking of the rigours of warfare on the desert 
We name to this day Li, the great General, who lived long agọ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét