I-Thủ pháp Ngắt mạch
II-Thủ pháp Tiểu đối
III-Thủ pháp Đồng dạng
IV-Thủ pháp Đảo ngữ & Ẩn ngữ
V-Thủ pháp Điệp ngữ
Để tránh lỗi Lục bát trôi xuôi (một lỗi nặng), và cũng để nâng cao giá trị một bài thơ lục bát, cách duy nhất là phải sử dụng Mỹ Từ Pháp, bao gồm những thủ thuật như sau :
I-Thủ pháp Ngắt mạch :
Một cặp thơ lục bát bao gồm 2 câu 14 chữ, nếu để nó trôi xuôi hết cặp này nối theo cặp khác, tất nhiên không thể tránh khỏi bị nhàm chán.
Thủ pháp ngắt mạch không những giúp tạo đột biến cho dòng chảy, mà còn gia tăng hình ảnh, màu sắc, âm thanh, hương vị cho câu thơ nữa
1-Ngắt mạch 2/2/2 trong câu lục và 2/2/2/2 trong câu bát:
Thay vì một câu lục 6 chữ diễn tả một ý SVO ( chủ từ - động từ - đối từ ) kiểu như :
- Anh (S) cho (V) em (IO) một đoá hồng (DO)
(IO: indirect object, đối từ gián tiếp chỉ người.
DO: direct object, đối từ trực tiếp chỉ vật)
Câu lục có thể phân làm 3 đoạn, mỗi đoạn 2 chữ mang một ý, một hình tượng nào đấy, lập tức câu lục này sẽ mang 3 hình tượng vừa làm giàu cho câu thơ, vừa phá thế đơn điệu .
Thí dụ : Từ 2 câu đầu bài “Đoá hồng”:
Anh cho em một đoá hồng
Khơi lên hy vọng trong lòng của em
Có thể sử dụng thuật “Ngắt mạch 2/2/2” viết lại thành :
Nụ cười, ánh mắt, hoa hồng
Cho em, cho cả tấm lòng thương yêu
Các thí dụ khác :
Này chồng / này mẹ / này cha
Này là em ruột / này là em dâu
..................................(Nguyễn Du-Kiều)
Râu hùm / hàm én / mày ngài
Vai năm tấc rộng / thân mười thước cao
........................................(ND-Kiều)
Sấm vang / chớp giật / gió đưa
Mây mù se mối / hạt mưa kết tình
........................(HSN-Người trong mưa)
Một mai phấn nhạt hương phai
Bình rơi / trâm gãy / bèo trôi / hoa tàn
............................(MTN-Chẳng thương)
2-Thủ pháp ngắt mạch 3/3 (Câu 6) V 4/4 (Câu 8) :
Ngắt câu lục thành 2 đoạn, mỗi đoạn 3 chữ, ngắt câu bát thành 2 đoạn mỗi đoạn 4 chữ
Thí dụ :
Khi chén rượu / khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở / khi chờ trăng lên
............................................(ND-Kiều)
Khi gió mát / khi trăng thanh
Ai người nhắc kẻ lữ hành đường xa
..............................................(HSN-Ngàn dâu)
Người song cửa / kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình cờ
.........................................(HSN-Tình cờ)
3-Các thủ pháp Ngắt mạch khác :
-1/5 trong câu lục, thí dụ :
Rằng /: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thời cũng người ta thường tình
.............................................(ND-Kiều)
-2/4 trong câu lục, thí dụ :
Vầng trăng / ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc / nửa soi dặm trường
..............................................(ND-Kiều)
Mảng nghe : / Tần chẳng có vua
Thái hậu nhiếp chính ầu ơ điện tiền
.......(HSN-Thừa Tướng Ứng Hầu Phạm Thư)
-3/5 hoặc 3/3/2 trong câu bát, thí dụ :
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm
Chẳng bao lâu / tất sắt cầm hợp hoan
.......................(HSN-Hoa Cúc Vàng)
-2/6 hoặc 2/4/2 trong câu bát, thí dụ :
Ôi Kim lang / hỡi Kim lang
Thôi thôi / thiếp đã phụ chàng từ đây
...............................................(ND-Kiều)
Tóm lại :
Trên đây là các thủ pháp ngắt mạch chính nhằm tạo ra đột biến và làm giàu cho câu thơ. Lưu ý rằng ở vị trí ngắt mạch muốn đặt dấu phẩy cũng được, mà không đặt cũng được, để người đọc tự ngắt mạch lấy càng hay !
II-THỦ PHÁP TIỂU ĐỐI
Khi thực hiện thủ pháp ngắt mạch, đặc biệt là với thủ pháp ngắt mạch 3/3 trong câu lục và 4/4 trong câu bát, thường thì các thủ pháp Tiểu đối và Tiểu đồng dạng cũng hay được sử dụng lồng vào, làm gia tăng hẳn giá trị của câu thơ.
1-Tiểu đối 3/3 và 4/4 :
Tiểu đối là một hình thức đối ngẫu thực hiện trên cùng một câu thơ bằng cách ngắt mạch câu thơ ấy thành ra 2 nửa , nửa nọ đối chặt chẽ với nửa kia. Trong câu lục ta sẽ có tiểu đối 3/3, trong câu bát sẽ có tiểu đối 4/4.
Hai vế trong câu thực hiện tiểu đối phải vừa đối ý, đối thanh, vừa đối cả từ loại .Thí dụ :
Làn thu thuỷ / nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh
.........................................(ND-Kiều)
Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười
........................................(ND-Kiều)
Người song cửa / kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình cờ
.....................................(HSN-Tình cờ)
Khi sương sớm / lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng vang xa tiếng đàn
...............................................(HSN-TTUHPT)
Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Vó câu khấp khểnh / bánh xe gập ghềnh
..................................................(ND-Kiều)
Xa quê từ ấy đến giờ
Lối xưa quên lối / đường xưa lạc đường
..........................................(HSN-Ngàn dâu)
Người này đáng mặt thần nhân
Tài kiêm văn võ, quỷ thần cũng thua
Hiền tài bậc nhất bây giờ
Pháp binh thông tỏ / thi thư am tường
.............................................(HSN-TTUHPT)
Có thể nói Tiểu đối là một thủ pháp quan trọng bậc nhất của thơ lục bát vậy
Qua những thí dụ về Tiểu đối nêu trên , dễ dàng nhận thấy rằng :
-Trong câu lục : Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Chữ thứ nhất đối với chữ thứ tư ( Mai /Tuyết)
Chứ thứ hai, thứ ba đối với chữ thứ năm , thứ sáu (Cốt cách / Tinh thần)
-Trong câu bát : Vó câu khấp khểnh / bánh xe gập ghềnh
Chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ năm, thứ sáu (Vó câu / Bánh xe)
Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ bảy, thứ tám (Khấp khểnh / Gập ghềnh)
Bây giờ giả sử rằng trong câu bát, nếu chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ bảy, thứ tám. Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ năm, thứ sáu ... thì sao ??? thì có được không ??? Lúc ấy có còn là Tiểu đối nữa hay không ???
Câu trả lời là được, đó vẫn là Tiểu Đối, mà hơn thế nữa, nó còn là một loại tiểu đối đặc biệt có tên là ....Tiểu đối qua gương.
2-Tiểu đối qua gương :
Là loại đối ngẫu cũng thực hiện trên cùng một câu thơ ; trong đó câu thơ được ngắt thành hai nửa, nửa nọ đối chặt chẽ với nửa kia, giống như Tiểu đối thường 3/3 hoặc 4/4 kể trên.
Điểm khác biệt duy nhất là
-Chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ bảy, thứ tám
-Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ năm, thứ sáu
( tưởng tượng giống như một vật đối xứng, phản chiếu qua một tấm gương vậy)
Một số thí dụ về Tiểu đối qua gương :
Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt / nhạt nhòa mưa xuân
.............................(MTN-Chẳng thương)
Gió xuân / Mưa xuân - Hiu hắt / Nhạt nhòa
Gợn buồn thoảng chút bâng khuâng
Xưa sao nhung gấm / phong trần bấy nay ?
...................................(HSN -Tình cờ)
Nhung gấm / Phong trần ; Xưa / Nay
Long Hồ dinh / tỉnh Vĩnh Long
Có sông Mang Thít xuôi dòng Quới An
Có thầy giáo Ngữ nghệ nhân
Lão thông cung bậc / ngũ âm tinh tường
..........................(HSN - Hoa Cúc Vàng)
Trong đoạn thơ ngắn 4 câu này, ta thấy thủ pháp Tiểu đối qua gương đã 2 lần được vận dụng :
Long Hồ / Vĩnh Long ; Dinh / Tỉnh
Lão thông / Tinh tường ; Cung bậc / Ngũ âm
Bấy giờ mất biến thành còn
Tái hồi nhân thế / quỷ môn giã từ
...............(HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư)
nhân thế / quỷ môn; Giã từ / Quy hồi
Tóm lại :
Cùng là Tiểu đối cả , nhưng :
-Tiểu đối thường : nửa nọ trượt trên nửa kia
-Tiểu đối qua gương : nửa sau là mảnh lật ngược của nửa trước vậy.
3-Tiểu đối mini 2/2 :
Trong thơ lục bát, bất luận là câu lục hay câu bát, ta thường thấy xuất hiện những cụm từ 4 từ , bao gồm 2 nửa, mỗi nửa có 2 từ đối nhau chan chát : Đó chính là tiểu đối mini 2/2
Tiểu đối loại này rất gần với phong cách nói đặc sắc của người Việt ( đặc biệt là người miền Bắc ) : Bay bướm, đối ngẫu, có ca có kệ, như hát như ru ...
Thí dụ :
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu
Áo xiêm trói buộc lấy nhau
[Vào luồn / ra cúi] công hầu mà chi
Sao bằng riêng một biên thùy
[Tài này / sức ấy] làm gì được nhau
…………………..Nguyễn Du - Kiều
Người này [tuổi trẻ / tài cao]
[Con dòng / cháu giống],[vương hầu / danh gia]
Cha là Mã Phục Triệu Xa
[Đánh thành / xung trận] kể đà mấy mươi
Ngày nay đang lúc cần người
Phong cho làm tướng, thải hồi Liêm Pha
……… HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư
Hỏi rằng con suối đi đâu ?
Trăm năm ghềnh đá bạc đầu chờ mong
[Hoa rơi / nước cuốn] theo dòng
Cho ta nhắn gửi nỗi lòng hoa ơi
Suối đi [cuối đất / cùng trời]
Trùng phùng biển cả, đơn côi núi rừng
Nước trôi róc rách mông lung
Miên man sương lạnh, mênh mông câu thề
Suối đi, suối có trở về ?
Đầu ghềnh trơ đá, đáy khe sũng buồn
Đêm qua [chớp giật / mưa tuôn]
Dạt dào con suối xa nguồn về xuôi
Bạc lòng chi lắm suối ơi
An Tây ghềnh đá suốt đời trông theo
………………………. Hàn Sĩ Nguyên
Chẳng thương ...
Chẳng thương cũng gọi rằng chồng
Chẳng tình cũng nghĩa, chẳng mong cũng chờ
Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt, nhạt nhòa mưa xuân
Hỏi người tham bã phù vân
Nhớ chăng [bể ái / nguồn ân] thuở nào
[Lưng dưa / dĩa muối] bên nhau
[Gừng cay / khế ngọt] biết bao nhiêu tình
Ngỡ rằng [phu quý / phụ vinh]
Ngờ đâu [rũ áo / dứt tình] theo ai
Một mai [phấn nhạt / hương phai]
[Bình rơi / trâm gãy], [bèo trôi / hoa tàn]
Trách mình số kiếp gian nan
Trách trời ghen ghét hồng nhan muộn rồi !
Mộng mơ chi lắm người ơi
[Nồi nào / vung nấy] suốt đời thong dong
…………………..Mộ Trung Nhân
Hãy xem Bạch Khởi làm gương
[Công thành / danh toại] sớm phương quy hồi
[Rừng xanh / núi đỏ] rong chơi
[Trăng thanh / gió mát] bên người rừng mai
[Mây ngàn / hạc nội] chơi vơi
Vẫn hơn quyến luyến mãi mùi đỉnh chung
[Trù mưu / tính kế] bận lòng
Cuối cùng không lại hoàn không , ích gì ???
......................………..(HSN-TTUHPT)
III-THỦ PHÁP TIỂU ĐỒNG DẠNG và CÂU ĐỒNG DẠNG
Khi thực hiện thủ pháp ngắt mạch, đặc biệt là ngắt mạch 3/3 và 4/4, ngoài các thủ thuật về Tiểu đối nêu trên, thường thì thủ thuật tiểu đồng dạng cũng hay được vận dụng. Vậy thì Tiểu đồng dạng là gì?
Tiểu đồng dạng là thủ pháp thực hiện trong cùng một câu thơ, ngắt làm 2 nửa, 2 nửa này có cấu trúc giống nhau, tương tự với nhau, song song với nhau
Thí dụ :
Khi chén rượu/ khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở/ khi chờ trăng lên [Kiều-Nguyễn Du]
Giá trị của tiểu đồng dạng so với tiểu đối hơn kém nhau như thế nào ?
Thật khó nói chắc là mèo nào sẽ cắn miu nào vậy. Đặc biệt là khi tiểu đồng dạng lại đi kèm cùng Điệp ngữ thì giá trị của nó không những không thua, mà đôi khi còn hơn hẳn tiểu đối nữa !!!
Vậy tiểu đồng dạng khác tiểu đối ra sao ?
-Trong thủ pháp tiểu đối : Tất cả các thành phần của chúng đối nhau chặt chẽ
-Trong thủ pháp tiểu đồng dạng : ít nhất là có một thành phần giống nhau, đồng dạng với nhau. Các thành phần còn lại có thể hoặc đối nhau, hoặc đồng dạng với nhau đều được cả
Tóm lại, tiểu đồng dạng và tiểu đối có thể xem như một cặp anh chị em song sinh ... Chúng giống
và gần gũi với nhau đến nỗi có nhiều sách giáo khoa cũng tưởng lầm là một ... Thật ra đó là 2 thủ thuật khác nhau.
1-Phân biệt Tiểu đồng dạng và Tiểu đối :
Khi sương sớm / lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng vang xa tiếng đàn (HSN-UHPT)
.........( tiểu đối 3/3 khi đối thanh với lúc, sương sớm đối với nắng tà )
Khi gió mát / khi trăng thanh
Ai người nhắc kẻ lữ hành đường xa (HSN-Ngàn dâu)
.........(tiểu đồng dạng + điệp ngữ khi ; gió mát đối với trăng thanh)
2-Tiểu đồng dạng phối hợp cùng thủ pháp Ngắt mạch :
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên (ND-Kiều)
.........(Tiểu đồng dạng + điệp ngữ 4 chữ khi)
Ung dung đọc sách ngâm thơ
Vàng cho chẳng cất, bạc cho chẳng màng (HSN-UHPT)
........(Tiểu đồng dạng Vàng cho, bạc cho...)
Trời trong xanh / nước trong xanh
Êm êm tiếng hát, bập bềnh thuyền con
Đàn tơ sáo trúc nỉ non
Hỏi người có nhớ cô thôn nghĩa tình ? ( HSN-Vọng cô thôn)
……(Tiểu đồng dạng + điệp ngữ trong xanh; trời đối với nước)
3-Câu đồng dạng trong một trường đoạn, kết hợp cùng Điệp ngữ :
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
............................(Nguyễn Du - Kiều)
Trong đoạn này có đến 4 lần vận dụng thủ pháp câu đồng dạng kiêm điệp ngữ Buồn trông ...
Cử bôi cũng muốn tiêu sầu
Ngờ đâu càng uống càng đau trong lòng
Nhớ khi xưa, ở Đại Lương
Ngô khoai cơm độn vẫn thường sẻ đôi
Lâm Tri đi sứ mà vui
Đánh xe dắt ngựa mấy người như ta
Nhớ khi lệ đổ máu sa (3161)
Đường quanh lối tắt tránh xa Ngụy Tề
Ba hồn lạc, bảy phách mê
Ai gom lá thuốc đem về cứu ai
Nhớ khi ở cánh rừng mai
Cầm kỳ thi họa tháng ngày rong chơi
Xa quê sang nước non người
Bát cơm tân khách một thời long đong
Nhớ khi chờ đợi mông lung
Nỗi lòng thao thức tỏ cùng trời cao
Mưu hay đánh đổ Nhương hầu
Thu gom chức trọng quyền cao đến giờ
Chạnh lòng nhớ những ngày xưa
Cử bôi uống mãi chưa vừa xót xa
..........................(HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư)
Trong đoạn thơ này đã có 4 lần thủ pháp câu đồng dạng kiêm Điệp ngữ Nhớ khi được vận dụng .
Khi nói chuyện về cái hay của truyện Kiều trong 2 câu thơ sau :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
..............................................................(ND-Kiều)
Các câu ấy đã được viết dưới dạng thức Đảo ngữ nhấn mạnh một điều gì đó mà thôi . Thật là bất ngờ khi nhận ra rằng trong 2 câu thơ lừng danh :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Nguyễn Du đã thực hiện cấu trúc đảo ngữ đến ba lần.
Ý ông muốn nói rằng :
-Trời (Chủ từ S) in (Động từ V) cái bóng của nó (Đối từ O : hiểu ngầm) xuống đáy nước (Trạng từ chỉ địa điểm) một cách long lanh (Trạng từ chỉ cách thức)
-Khói biếc (S) xây (V) thành bức tường thành (Trạng từ so sánh)
-Bóng vàng (= ánh trăng) (S) phơi ra (V) nơi đầu non, đầu núi(Trạng từ địa điểm)
Thật là những hình ảnh đẹp tuyệt vời, nhờ cấu trúc Đảo ngữ đã trở thành cô đọng đến mức cùng cực vậy
IV-THỦ PHÁP ĐẢO NGỮ và ẨN NGỮ
Cấu trúc của một câu xuôi:
Câu phát biểu (Statement) của tiếng Việt cũng như của tiếng Anh thường có cấu trúc xuôi theo dạng :
S - V - IO - DO
I give you a rose
Anh cho em một đoá hồng
Nếu có trạng từ ( adverb ), các trạng từ này thường tuân theo trật tự ( HOW - WHERE -WHEN ), trong đó :
HOW : adverb of manner , trạng từ chỉ cách thức
WHERE : adverb of place, trạng từ chỉ địa điểm
WHEN : adverb of time, trạng từ chỉ thời gian
Trong những câu tắt , hoặc những câu có động từ intransitive ( động từ không cần đối từ O ), cấu trúc câu thường đơn giản là
S - V - Adv (How-Where-When)
Tóm lại, cấu trúc xuôi của một câu phát biểu (hay tường thuật) có thể tóm gọn dưới dạng
S - V - (O) - Adv
Chủ từ - Động từ - (Đối từ) - Trạng từ
Ẩn ngữ :
Là thủ pháp bỏ qua (omitted) một từ nào đấy. Từ thường được bỏ qua nhất trong thơ chính là Chủ từ S, đôi khi các Động từ V cũng hay được bỏ rơi. Một bài thơ có nhiều chủ từ quá thường là rất “nặng nề”, mất hết cả “tính thơ” vậy
Chính các Tính từ (Adjective) và Trạng từ (Adverb) là thành phần làm linh động, làm giàu cho câu thơ nên ít khi bị bỏ rơi, mà thường hiện diện nhiều hơn cả
Đảo ngữ :
Là thủ pháp lật ngược các thành phần trong một câu xuôi, thường dùng để nhấn mạnh (emphatic form)
Có 2 hình thức đảo ngữ chính, đó là :
-Đảo ngữ cấp 1 (hay đảo ngữ cục bộ)
-Đảo ngữ cấp 2 (hay đảo ngữ toàn phần)
1-Đảo ngữ cấp một (Đảo ngữ cục bộ) :
Chỉ đảo trạng từ lên đứng trước động từ , các thành phần khác giữ nguyên.
Câu [ S - V - O - Adv ] trở thành [ Adv - S - V – O ]
Một số thí dụ :
Tần ngần dạo gót lầu trang
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về
.................................................(ND-Kiều)
Trong câu này cả ẩn ngữ lẫn đảo ngữ cấp một đều được vận dụng :
-Ẩn ngữ : giấu đi chủ từ Kiều
-Ý của câu xuôi là : [Kiều] dạo gót (bước, tản bộ) một cách tần ngần qua chốn lầu trang
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ tần ngần lên đầu câu
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
...........................................(ND-Kiều)
-Ẩn ngữ : Lũ sai nha
-Ý câu xuôi : Lũ sai nha vét sạch sành sanh những đồ tế nhuyễn, của riêng tây cho đầy túi tham [của chúng]
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ sạch sành sanh lên trước động từ vét
Nghênh ngang một cõi biên thùy
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương
Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần
...............................................(ND-Kiều)
-Ẩn ngữ : (S) Từ Hải, (V) trấn giữ, chiếm giữ
-Ý câu xuôi : [Từ HảI] [chiếm giữ] nghênh ngang [khắp] một cõi biên thùy
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ nghênh ngang ra trước SV Từ Hải chiếm giữ (ẩn)
-Đảo ngữ Năm năm trong câu cuối : [Từ Hải] hùng cứ một phương hải tần (duyên hải) [suốt trong] năm năm
Ngượng ngùng tay lại cầm tay
Rưng rưng mắt biếc, ngây ngây má hồng
........................................(HSN-Tình cờ)
-Ẩn ngữ : người này, người kia
-Ý câu xuôi : Tay [người này] lại cầm lấy tay [người kia] một cách ngượng ngùng
-Đảo ngữ : đảo trạng từ ngượng ngùng lên đầu câu
Tướng quân lão nhược họ Liêm
Nhát như thỏ đế, chỉ chuyên bố phòng
Bốn năm chẳng một chút công
Sợ Tần như cọp, một lòng cầu an
........................................(HSN-UHPT)
-Ẩn ngữ : động từ Lập , chủ từ Liêm Pha
-Ý câu xuôi : [Liêm Pha] chẳng [lập] được một chút công lao nào trong suốt bốn năm .
-Đảo ngữ : đảo trạng từ Bốn năm lên đầu câu
Trải qua mấy dặm rừng hoang
Âm u khói tỏa, điêu tàn miếu thiêng
Bốn bề không một ánh đèn
Trời vừa sập tối, điện tiền nghỉ chân
........(HSN-Thạch Sanh Lý Thông Tân Biên)
-Ẩn ngữ : (S) Thạch Sanh
-Ý câu xuôi : [Thạch Sanh] nghỉ chân ở tại điện tiền (trạng từ địa điểm), lúc trời vừa sập tối (trạng từ thời gian)
-Đảo ngữ : đảo cả 2 trạng từ Điện tiền, và Trời vừa sập tối lên đầu câu
Nhắc lại, cấu trúc câu xuôi thông thường là : S-V-[O]-Adv
Nếu đảo trạng từ lên trước SV ta sẽ có Đảo ngữ cấp một (cấu trúc Adv-S-V) cũng còn được gọi là Đảo ngữ cục bộ (Partially inverted
structure)
Bây giờ nếu đảo ngược toàn bộ S-V-Adv thành cấu trúc Adv-V-S thì sao ? Lúc ấy ta sẽ được một cấu trúc đặc sắc hơn nữa, có tên là Đảo ngữ cấp hai, cũng còn được gọi là Đảo ngữ toàn phần (Entirely inverted structure).
2-Đảo ngữ cấp hai (Đảo ngữ toàn phần) :
Đảo ngữ cấp hai (hay đảo ngữ toàn phần) là một thủ pháp cao cấp của Mỹ Từ Pháp. Cấu trúc câu xuôi thông thường [ S-V-Adv ] được nghịch đảo toàn bộ thành [Adv-V-S] Trong cấu trúc này chủ từ S là chữ đi sau cùng (!)
Nhận ra được cấu trúc này trong một bài thơ nào đó đã khó... Thực hành viết đảo ngữ toàn phần trong thơ của mình, khi chưa quen, còn khó hơn gấp bội vậy.
Dưới đây là một số thí dụ về cấu trúc đảo ngữ toàn phần [Adv-V-S] này > Chủ từ S đuợc in đậm màu xanh
Tuyết / in / sắc ngựa câu giòn
Cỏ / pha / màu áo nhuộm non da trời
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Long lanh / đáy nước / in / trời
Thành / xây / khói biếc, non / phơi / bóng vàng
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng
Phòng văn hơi giá như đồng
Trúc / se / ngọn thỏ , tơ / chùng / phím loan
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau / treo / rèm nát, trúc / cài / phên thưa
........................(Nguyễn Du-Kiều)
Rì rào / thoảng / tiếng mưa rơi
Bên tai / vang vọng / những lời yêu thương
.............................(HSN-Người trong mưa)
Từ đây muôn dặm quan san
Câu thơ, chung rượu, cung đàn lãng du
Này ân, này oán, này thù
Mộ sâu / chôn chặt / giấc mơ nửa đời
..........................(HSN-Ngày xưa)
Nửa vầng trăng sáng lung linh
Hoa khuya mới nở rung rinh giọt sầu
Trời đêm / lấp lánh / ánh sao
Ven sông lá rụng , bên cầu hoa rơi
................(HSN-Nửa vầng trăng 03)
Một lần chợt thấy em cười
Bâng khuâng tự hỏi phải người ngày xưa ?
Cũng là suối tóc đong đưa
Long lanh ánh mắt, đợi chờ khoé môi
Từ lâu / đã khuất / bóng người
Dư âm còn chút tiếng cười thơ ngây
...................(HSN-Bâng khuâng)
Kề vai, tựa gối, ấp đầu
Trọn đời bên khách má đào tri âm
Đó đây / văng vẳng / hồ cầm
Ứng Thành nào khác Mai Lâm quê nhà
Khi sương sớm, lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng / vang xa / tiếng đàn
...............(HSN-Thừa Tướng Ứng hầu Phạm Thư)
Hy vọng rằng các thí dụ này có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề. Thật ra, cấu trúc đảo ngữ này là cấu trúc khó , nhưng nếu vận dụng quen rồi thì khó cũng trở thành dễ mà thôi, các bạn ạ ...
V-THỦ PHÁP ĐIỆP NGỮ :
Điệp ngữ là thủ thuật lặp đi lặp lại có chủ ý một từ nào đó , mục đích để thi vị hoá câu thơ, đồng thời nhấn mạnh hoặc giảm nhẹ một điểm đặc trưng trong câu. Điệp ngữ cũng có nhiều hình thức khác nhau và cũng thường được sử dụng xen lẫn vào trong các thủ pháp khác, đặc biệt là hay đi kèm cùng câu đồng dạng
1-Điệp ngữ qua hình thức sử dụng “từ láy” :
Trong tiếng Việt, cách dùng Điệp ngữ dưới hình thức “từ láy” cũng có giá trị tương tự, trong đó, chữ thêm vào đặt trước chữ chính . Thí dụ :
Xa xa --------- hơi hơi xa
Xanh xanh ----- hơi hơi xanh, xanh nhạt
Nho nhỏ ------- hơi hơi nhỏ
Tim tím ------- hơi hơi tím, tím nhạt
Để ý rằng :
-Nếu chữ chính thanh bằng (Xa, Xanh, Buồn...): Lặp lại y nguyên chữ đó (Xa xa, xanh xanh, Buồn buồn...)
-Nếu chữ chính thanh trắc (Nhỏ, Tím, Đỏ...) : Lặp lại bằng từ thanh bằng tiệm cận với từ ấy (Nho nhỏ, Tim tím, Đo đỏ, Biền biệt, Văng vẳng, Đằng đẵng ...)
Các thí dụ về Điệp ngữ dùng “Từ láy” trong thơ lục bát :
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước lần theo ngọn tiểu khê
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
.................……………..(Nguyễn Du-Kiều)
Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm
Trời hôm mây kéo tối rầm
Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương
.................……………..(Nguyễn Du-Kiều)
Nàng thì chiếc bóng song mai
Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài then mây
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân
Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
................………….(Nguyễn Du-Kiều)
Hỏi han hết mực kính nhường
Cớ sao cố ý chặn đường xe qua
Ba lần hỏi, chẳng thèm thưa
Trước sau vờ vĩnh pho pho ngáy đều
Gió đưa râu bạc phiêu phiêu
Phơ phơ tóc trắng, ra chiều tiên nhân
...............……………….(HSN-ƯHPT)
Gióng cương trực chỉ Tây Hà
Tần kề một bước, Nguỵ xa ngàn trùng
Rừng mai khuất đám bụi hồng
Lửa hương se thắt chạnh lòng mà đau
Băng băng xe lướt ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt khơi sầu chinh nhân
Xa xa thấp thoáng non Tần
Biết bao gian khổ khó khăn sẵn chờ
...............………………..(HSN-ƯHPT)
Trời chiều, bóng ngả cô liêu
Hai quân im tiếng, đìu hiu chiến trường
Xa xa hạc lẻ kêu sương
Đó đây văng vẳng tiếng hờn âm u
Oan hồn tử sĩ phiêu du
Khói hương chẳng có, mịt mù sầu dâng
............………………....(HSN-ƯHPT)
Nhanh chân núp dưới tường hoa
Em không có nón, trời mưa tầm tầm
Đường xa, trời tối, mưa dầm
Người không quen biết xăm xăm ngỏ lời
........………..(HSN-Lời người trong mưa)
Từ khi trao gửi trâm vàng
Chia tay rời khỏi miệng hang trở về
Đường xa muôn dặm sơn khê
Nước đi biền biệt không về cùng non
Nghẹn ngào đá lấp, người chôn
Chẳng hay quân tử mất còn nơi nao
Rưng rưng ruột xót gan bào
Bời bời hoa lá, dàu dàu cỏ cây
.......(HSN-Thạch Sanh Lý Thông Tân Biên)
2-Điệp ngữ đi cùng câu đồng dạng trong một trường đoạn:
Thêm một số các thí dụ :
Rút trâm giắt sẵn mái đầu
Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra
Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài
......................(Nguyễn Du-Kiều)... 3 lần “Lại càng”
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
......................(Nguyễn Du-Kiều)... 4 chữ “Khi”
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
Còn non còn nước còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 5 chữ “Còn”
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng khỏi mắc tay bợm già
Khi về bỏ vắng trong nhà
Khi vào dúng dắng, khi ra vội vàng
Khi ăn khi nói lỡ làng
Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 7 chữ “Khi”
Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu
Làm cho nhìn chẳng được nhau
Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay !
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 3 lần “Làm cho”
Vợ chồng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi
Bắt khoan bắt nhặt đến lời
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 5 chữ “Bắt”
Sẵn Quan âm các vườn ta
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 4 chữ “Có”
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 4 lần “Buồn trông”
Nguỵ Tề càng đánh càng điên
Men say càng bốc, ghét ghen càng nồng :
Đánh cho chết đứa cuồng ngông
Đánh cho hết kẻ ám thông nước ngoài
Đánh cho tuyệt nọc tay sai
Đánh cho trắng mắt những loài gièm pha !
.......(HSN-Ứng Hầu Phạm Thư) ... 4 “Càng”, và 4 lần “Đánh cho”
Nhớ chăng gương Bá Lý Hề
Bảy mươi chăn ngựa nuôi dê xứ người
Nhớ chăng Câu Tiễn nằm gai
Phơi sương nếm mật có ngày nên công
...............(HSN-Ứng Hầu Phạm Thư) ... 2 lần “Nhớ chăng”
Chợt quen em, phút giây này
Long lanh mắt biếc, bay bay tóc huyền
Mỉm cười, duyên lại thêm duyên
Càng nghe càng mến, càng nhìn càng ưa
..................(HSN-Mưa tình cờ) ... 4 chữ “Càng”
Đường đời càng ngẫm càng đau
Càng buồn càng tủi càng sầu càng thương
Tơ không ai vấn mà vương
Chiêm bao chưa tỉnh hồn nương xứ nào ?
...................(HSN-Một thuở đưa đò) ... 6 chữ “Càng”
LƯU Ý :
Có lẽ cũng cần thiết phải phân biệt “Cách nói trùng lặp” và “Điệp ngữ”
-Cách nói trùng lặp, nhai đi nhai lại, cà lăm là cách diễn đạt rất tầm thường vì cho thấy người viết túng ý, nghèo từ, thiếu lời nên cứ phải nói đi nói lại mãi một từ hoặc một câu
-Trong khi đó, Điệp ngữ là sự lặp đi lặp lại một từ nào đó có chủ ý để làm tăng tính thi vị của câu thơ. Thủ pháp này rất đặc sắc, vì thường được “lồng vào”, “nhúng vào” , “kèm theo” vô số những “quái chiêu”.
Nếu Điệp Ngữ ví như ánh sao sáng lấp lánh trên bầu trời đêm, thì cách nói trùng lặp chỉ là... chân vịt trên mặt bùn. Cả 2 đều... có cùng... 5 cánh , nhưng khác nhau xa, khác nhau nhiều lắm vậy...
Thật lạ lùng khi có nhiều thức giả lại nhầm lẫn, cho rằng 2 thứ này... là một, không những vậy, còn đưa ra lời khuyến cáo sai lầm: "càng ít dùng điệp ngữ... càng tốt" (!)
3-Các thủ pháp Điệp ngữ đặc biệt
Có lẽ cũng cần thiết phải phân biệt “Cách nói trùng lặp” và “Điệp ngữ”
-Cách nói trùng lặp, nói lắp, cà lăm là cách diễn đạt rất tầm thường vì cho thấy người viết túng ý, nghèo từ, thiếu lời nên cứ phải nhai đi nhai lại mãi một từ hoặc một câu
-Trong khi đó, Điệp ngữ là sự lặp đi lặp lại một từ nào đó có chủ ý để làm tăng tính thi vị của
câu thơ. Thủ pháp này rất đặc sắc, vì thường được “lồng vào”, “nhúng vào” , “kèm theo” vô số những “quái chiêu”.
Dưới đây là một số “quái chiêu” hay đi kèm cùng Điệp ngữ
3.1- Điệp ngữ & từ bất định :
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia
Ngoài ra AI lại tiếc gì với AI
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Khóc rằng :-“Oan khốc vì ta
Có nghe lời trước, chẳng đà luỵ sau
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu
Để AI trăng tủi hoa sầu vì AI”
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Vườn xưa khuất bóng AI rồi
AI thành tượng đá ngậm ngùi thiên thu
...................(HSN-Thiên thu ngậm ngùi)
Nhìn nhau lòng những ngượng ngùng
Vì đâu AI bỗng lạnh lùng với AI
...................(HSN-Tình cờ)
+++Trong các thí dụ trên , cùng một đại từ bất định AI (indefinite pronoun) nhưng đều chỉ 2 đối tượng khác nhau
3.2- Điệp ngữ kiêm chơi chữ :
ĐÀO tiên đã bén tay phàm
Thà vin cành QUÝT cho CAM sự đời
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
+Chơi chữ cùng một chủng loại : (Họ “trái cây” : Đào, cam, quýt).
+Chơi chữ một chữ 2 nghĩa : “cam” ngoài nghĩa là “quả cam” còn có nghĩa là “cam lòng, cam đành. cam chịu” nữa !
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật MÌNH, MÌNH lại thương MÌNH, xót xa
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Chơi chữ khác từ loại : “giật mình” (trạng từ cách thức-Adverb of manner), “mình” (chủ từ-Subject) , và “mình” (đại từ phản thân-Reflexive pronoun)
Mượn người thuê kiệu rước nàng
BẠC đem mặt BẠC kiếm đàng cho xa
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Chơi chữ một chữ 2 nghĩa : Chữ “Bạc” thứ nhất là danh từ riêng chỉ tên người (Bạc Hạnh), chữ “bạc” thứ hai là tính từ “bạc bẽo”
Lòng RIÊNG, RIÊNG những kính yêu
Chồng CHUNG chưa dễ ai chiều cho ai
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
+Chơi chữ khác từ loại : “riêng” trong “lòng riêng” là tính từ , chữ “riêng” thứ nhì là trạng từ
+Chơi chữ từ đối lập : “chung” và “riêng”
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi RIÊNG, RIÊNG chạnh tấc RIÊNG một mình
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Chơi chữ chữ riêng khác từ loại
CỔ chưa đứt CỔ là may
Phún nhân hàm huyết từ nay xin chừa !
...................(HSN-Ứng hầu Phạm Thư)
Chơi chữ khác từ loại : Chữ “Cổ” thứ nhất là danh từ riêng chỉ tên người (Tu Cổ), chữ “cổ” thứ hai là danh từ chung (cái cổ, đầu cổ)
3.3- Điệp ngữ điên đảo càn khôn :
Nguyệt hoa / hoa nguyệt não nùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng ?
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Lửng lơ / lơ lửng cánh diều
Lênh đênh theo sóng bọt bèo lênh đênh
...................(HSN-Bọt bèo lênh đênh)
3.4- Điệp ngữ tiền hậu song trùng
Sá chi liễu ngõ hoa tường
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Xót thay đào lý một cành
Một phen mưa gió, tan tành một phen
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Anh hùng mới biết anh hùng
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa ?
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa ?
Tức gan riêng giận trời già
Lòng này ai hiểu cho ta hỡi lòng ?
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Mấy lời tâm phúc ruột rà
Tương tri dường ấy, mới là tương tri
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)
Lá dâu thưa lá vườn dâu
Giàn hoa thiên lý phai màu giàn hoa
Bèo ken đặc kín ao nhà
Vườn mênh mông cỏ, xót xa không vườn ?
...................(HSN-Áo anh sứt chỉ đường tà)
Lửng lơ lơ lửng cánh diều
Lênh đênh theo sóng bọt bèo lênh đênh
...................(HSN-Bọt bèo lênh đênh)
3.5- Điệp ngữ Lưỡng Đầu Xà
Là một loại Điệp ngữ Tiền hậu song trùng đặc biệt, 2 chữ cuối là hoán vị, là nghich đảo của 2 chữ đầu. Trong toàn bộ truyện Kiều chỉ tìm thấy một câu có sử dụng Lưỡng Đầu Xà như sau :
Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng
Nhưng câu này không phải là Lưỡng Đầu xà chính tông, vì 2 chữ "hoàng hôn" ấy không nằm ở đầu câu
3.6- Điệp ngữ... Lã Đầu Xường
Lã Đầu Xường là thủ pháp Điệp ngữ Lưỡng Đầu Xà Nghich Thiệt (nói lái). Hai chữ cuối là nghich đảo , nói lái của 2 chữ đầu. Hình thức này khó hơn Lưỡng Đầu Xà một bậc nữa , nhưng cũng tinh vi hơn, cao chiêu hơn , khó... nhằn hơn
Hoàng hôn thấm lạnh hồn hoang
Kết luận về Mỹ Từ Pháp :
Các thủ thuật Mỹ từ pháp, ngoài những điều đã nêu (Ngắt mạch, Tiểu đối, Đồng dạng, Ẩn ngữ, Đảo ngữ, Điệp ngữ...) vẫn còn nhiều hình thức quái chiêu khác, cụ thể như : Nhân cách hoá, Ẩn dụ, Hoán dụ, Nghịch đảo, Thậm xưng, Khoa đại , Tỷ giảo v.v...
Tuy vậy, không thể một lúc mà có thể tiếp thu hết ngay được. Biết nhiều quá, nhiều khi lại chỉ ... có hại !!!
Các thủ pháp trên đây chỉ nên coi chúng như các công cụ “cưa, giũa, đục, bào, kìm, búa, ê-ke, vạch mực” mà thôi. Một điều quan trọng hơn là phải biết “lúc nào dùng công cụ nào” cho thích hợp nhất (Tất nhiên, không thể lấy búa ra cưa được, cũng không thể lấy kìm ra đục !).
Trong thực tế, chỉ có thể chọn lựa đúng công cụ cần thiết khi đã từng trải, lăn lóc với thơ, thu góp kinh nghiệm sử dụng dần dần theo kiểu “tích tiểu thành đại”. Điều này thật sự là không ai có thể giúp được cho ai vậy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét