Hiển thị các bài đăng có nhãn Bạch Cư Dị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bạch Cư Dị. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2015

Hậu cung từ - Bạch Cư Dị


後 宮 詞 

淚 濕 羅 巾 夢 不 成
夜 深 前 殿 按 歌 聲
紅 顏 未 老 恩 先 斷
斜 倚 薰 籠 坐 到 明

白 居 易

HẬU CUNG TỪ

Lệ tận la cân mộng bất thành 
Dạ thâm tiền điện tiếp ca thanh 
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn 
Tà ỷ huân lung toạ đáo minh

Bạch Cư Dị

Vấn Lưu Thập Cửu - Bạch Cư Dị


問 劉 十 九 

綠 螘 新 醅 酒
紅 泥 小 火 爐
晚 來 天 欲 雪
能 飲 一 杯 無

白 居 易

VẤN LƯU THÂP CỬU

Lục nghĩ tân phôi tửu 
Hồng nê tiểu hoả lô 
Vãn lai thiên dục tuyết 
Năng ẩm nhất bôi vô 

Bạch Cư Dị

Vọng nguyệt hữu cảm - Bạch Cư Dị

自河南經亂,關內阻饑, 
兄弟離散, 各在一處。 

因望月有感,聊書所懷, 

寄上浮梁 大兄, 

於潛七兄,烏江十五兄,
兼示符離及下 邽弟妹。 

時 難 年 荒 世 業 空
弟 兄 羈 旅 各 西 東
田 園 寥 落 干 戈 後
骨 肉 流 離 道 路 中
弔 影 分 為 千 里 雁
辭 根 散 作 九 秋 蓬
共 看 明 月 應 垂 淚
一 夜 鄉 心 五 處 同

白 居 易


VỌNG NGUYỆT HỮU CẢM

Tự hà nam kinh loạn , quan nội trở cơ , huynh đệ ly tán, các tại nhất xứ. Nhân vọng nguyệt hữu cảm, liêu thư sở hoài, ký thượng phù lương đại huynh, ô tiềm thất huynh, ô giang thập ngũ huynh, kiêm thị phù ly cập hạ khuê đệ muội .

Thời nan niên hoang thế nghiệp không
Đệ huynh ky lữ các tây đông
Điền viên liêu lạc can qua hậu
Cốt nhục lưu li đạo lộ trung
Điếu ảnh phân vi thiên lý nhạn
Từ căn tán tác cửu thu bồng
Cộng khán minh nguyệt ưng thuỳ lệ
Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng


Bạch Cư Dị

Cổ nguyên thảo tống biệt - Bạch Cư Dị

古 原 草 送 別  

離 離 原 上 草

一 歲 一 枯 榮

野 火 燒 不 盡

春 風 吹 又 生

遠 芳 侵 古 道
晴 翠 接 荒 城
又 送 王 孫 去
萋 萋 滿 別 情

白 居 易


CỔ NGUYÊN THẢO TỐNG BIỆT

Ly ly nguyên thượng thảo 
Nhất tuế nhất khô vinh 
Dã hoả thiêu bất tận 
Xuân phong xuy hựu sinh 
Viễn phương xâm cổ đạo 
Tình thuý tiếp hoang thành 
Hựu tống vương tôn khứ 
Thê thê mãn biệt tình

Bạch Cư Dị

Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị


琵 琶 行 并 序

潯 言 江 頭 夜 送 客 
楓 葉 荻 花 秋 瑟 瑟 
主 人 下 馬 客 在 船 
舉 酒 欲 飲 無 管 絃 
醉 不 成 歡 慘 將 別 
別 時 茫 茫 江 浸 月 
忽 聞 水 上 琵 琶 聲 
主 人 忘 歸 客 不 發 
尋 聲 暗 問 彈 者 誰 
琵 琶 聲 停 欲 語 遲 
移 船 相 近 邀 相 見 
添 酒 回 燈 重 開 宴 
千 呼 萬 喚 始 出 來 
猶 抱 琵 琶 半 遮 面 
轉 軸 撥 絃 三 兩 聲 
未 成 曲 調 先 有 情 
絃 絃 掩 抑 聲 聲 思 
似 訴 平 生 不 得 志 
低 眉 信 手 續 續 彈 
說 盡 心 中 無 限 事 
輕 攏 慢 撚 抹 復 挑 
初 為 霓 裳 後 六 么 
大 絃 嘈 嘈 如 急 雨 
小 絃 切 切 如 私 語 
嘈 嘈 切 切 錯 雜 彈 
大 珠 小 珠 落 玉 盤 
間 官 鶯 語 花 底 滑 
幽 咽 泉 流 水 下 灘 
水 泉 冷 澀 絃 凝 絕 
凝 絕 不 通 聲 漸 歇 
別 有 幽 愁 暗 恨 生 
此 時 無 聲 勝 有 聲 
銀 瓶 乍 破 水 漿 迸 
鐵 騎 突 出 刀 鎗 鳴 
曲 終 收 撥 當 心 畫 
四 絃 一 聲 如 裂 帛 
東 船 西 舫 悄 無 言 
唯 見 江 心 秋 月 白 
沈 吟 放 撥 插 絃 中 
整 頓 衣 裳 起 斂 容 
自 言 本 是 京 城 女 
家 在 蝦 蟆 陵 下 住 
十 三 學 得 琵 琶 成 
名 屬 教 坊 第 一 部 
曲 罷 曾 教 善 才 服 
妝 成 每 被 秋 娘 妒 
五 陵 年 少 爭 纏 頭 
一 曲 紅 綃 不 知 數 
鈿 頭 銀 篦 擊 節 碎 
血 色 羅 裙 翻 酒 汙 
今 年 歡 笑 復 明 年 
秋 月 春 風 等 閑 度 
弟 走 從 軍 阿 姨 死 
暮 去 朝 來 顏 色 故 
門 前 冷 落 車 馬 稀 
老 大 嫁 作 商 人 婦 
商 人 重 利 輕 別 離 
前 月 浮 梁 買 茶 去 
去 來 江 口 守 空 船 
繞 船 月 明 江 水 寒 
夜 深 忽 夢 少 年 事 
夢 啼 妝 淚 紅 闌 干 
我 聞 琵 琶 已 嘆 息 
又 聞 此 語 重 唧 唧 
同 是 天 涯 淪 落 人 
相 逢 何 必 曾 相 識 
我 從 去 年 辭 帝 京 
謫 居 臥 病 潯 陽 城 
潯 陽 地 僻 無 音 樂 
終 歲 不 聞 絲 竹 聲 
住 近 湓 江 地 低 濕 
黃 蘆 苦 竹 繞 宅 生 
其 間 旦 暮 聞 何 物 
杜 鵑 啼 血 猿 哀 鳴 
春 江 花 朝 秋 月 夜 
往 往 取 酒 還 獨 傾 
豈 無 山 歌 與 村 笛 
嘔 啞 嘲 哳 難 為 聽 
今 夜 聞 君 琵 琶 語 
如 聽 仙 樂 耳 暫 明 
莫 辭 更 坐 彈 一 曲 
為 君 翻 作 琵 琶 行 
感 我 此 言 良 久 立 
卻 坐 促 絃 絃 轉 急 
淒 淒 不 似 向 前 聲 
滿 座 重 聞 皆 掩 泣 
座 中 泣 下 誰 最 多 
江 州 司 馬 青 衫 濕

白 居 易

TỲ BÀ HÀNH

Tầm ngôn giang đầu dạ tống khách 
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt 
Chủ nhơn hạ mã khách tại thuyền 
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền 

Túy bất thành hoan thảm tương biệt 
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt 
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh 
Chủ nhơn vong quy khách bất phát 

Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy 
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì 
Di thuyền tương cận yêu tương kiến 
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến 

Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai 
Do bão tỳ bà bán già diện 
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh 
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình 

Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ 
Tự tố bình sanh bất đắc chí 
Ðê my tín thủ tục tục đàn 
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự 

Khinh long mạn nhiên mạt phục khiêu 
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu 
Ðại huyền tào tào như cấp vũ 
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ 

Tào tào thiết thiết thác tạp đàn 
Ðại châu tiểu châu lạc ngọc bàn 
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt 
U yết tuyền lưu thủy hạ 

Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt 
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết 
Biệt hữu u sầu ám hận sanh 
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh 

Ngân bình sạ phá thủy tương bính 
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh 
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch 
Tứ huyền nhứt thanh như liệt bạch 

Ðông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn 
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch 
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung 
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung 

Tự ngôn bổn thị kinh thành nữ 
Gia tại Hà mô lăng hạ trú 
Thập tam học đắc tỳ bà thành 
Danh thuộc giáo phường đệ nhứt bộ 

Khúc bãi tằng giáo thiện tài phục 
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố 
Ngũ lăng niên thiếu tranh triền đầu 
Nhứt khúc hồng tiêu bất tri số 

Ðiền đầu ngân bề kích tiết toái 
Huyết sắc la quần phiên tửu ô 
Kim niên hoan tiếu phục minh niên 
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ 

Ðệ tẩu tùng quân a di tử 
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố 
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy 
Lão đại giá tác thương nhơn phụ 

Thương nhơn trọng lợi khinh biệt ly 
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ 
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền 
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn 

Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự 
Mộng đề trang lệ hồng lan can 
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức 
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức 

Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhơn 
Tương phùng hà tất tằng tương thức 
Ngã tùng khứ niên từ đế kinh 
Trích cư ngoạ bịnh Tầm Dương thành 

Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc 
Chung tuế bất văn ty trúc thanh 
Trú cận Bồn giang địa đê thấp 
Huỳnh lô khổ trúc nhiễu trạch sanh 

Kỳ gian đán mộ văn hà vật 
Ðỗ quyên đề huyết viên ai minh 
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ 
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh 

Khởi vô sơn ca dữ thôn địch 
Ẩu nha triều triết nan vi thính 
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ 
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh 

Mạc từ cánh toạ đàn nhứt khúc 
Vi quân phiên tác tỳ bà hành 
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập 
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp 

Thê thê bất tự hướng tiền thanh 
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp 
Toà trung khấp hạ thùy tối đa 
Giang châu Tư Mã thanh sam thấp

Bạch Cư Dị

Trường Hận Ca - Bạch Cư Dị

長 恨 歌 


漢 皇 重 色 思 傾 國

御 宇 多 年 求 不 得

楊 家 有 女 初 長 成

養 在 深 閨 人 未 識

天 生 麗 質 難 自 棄

一 朝 選 在 君 王 側

回 眸 一 笑 百 媚 生
六 宮 粉 黛 無 顏 色
春 寒 賜 浴 華 清 池
溫 泉 水 滑 洗 凝 脂
侍 兒 扶 起 嬌 無 力
始 是 新 承 恩 澤 時
雲 鬢 花 顏 金 步 搖
芙 蓉 帳 暖 度 春 宵
春 宵 苦 短 日 高 起
從 此 君 王 不 早 朝
承 歡 侍 宴 無 閑 暇
春 從 春 遊 夜 專 夜
後 宮 佳 麗 三 千 人
三 千 寵 愛 在 一 身
金 星 妝 成 嬌 侍 夜
玉 樓 宴 罷 醉 和 春
姊 妹 弟 兄 皆 列 士
可 憐 光 彩 生 門 戶
遂 令 天 下 父 母 心
不 重 生 男 重 生 女
驪 宮 高 處 入 青 雲
仙 樂 風 飄 處 處 聞
緩 歌 慢 舞 凝 絲 竹
盡 日 君 王 看 不 足
漁 陽 鼙 鼓 動 地 來
驚 破 霓 裳 羽 衣 曲
九 重 城 闕 煙 塵 生
千 乘 萬 騎 西 南 行
翠 華 搖 搖 行 復 止
西 出 都 門 百 餘 里
六 軍 不 發 無 奈 何
宛 轉 蛾 眉 馬 前 死
花 鈿 委 地 無 人 收
翠 翹 金 雀 玉 搔 頭
君 王 掩 面 救 不 得
回 看 血 淚 相 和 流
黃 埃 散 漫 風 蕭 索
雲 棧 縈 紆 登 劍 閣
峨 嵋 山 下 少 人 行
旌 旗 無 光 日 色 薄
蜀 江 水 碧 蜀 山 青
聖 主 朝 朝 暮 暮 情
行 宮 見 月 傷 心 色
夜 雨 聞 鈴 腸 斷 聲
天 旋 地 轉 迴 龍 馭
到 此 躊 躇 不 能 去
馬 嵬 坡 下 泥 土 中
不 見 玉 顏 空 死 處
君 臣 相 顧 盡 霑 衣
東 望 都 門 信 馬 歸
歸 來 池 苑 皆 依 舊
太 液 芙 蓉 未 央 柳
芙 蓉 如 面 柳 如 眉
對 此 如 何 不 淚 垂
春 風 桃 李 花 開 日
秋 雨 梧 桐 葉 落 時
西 宮 南 內 多 秋 草
落 葉 滿 階 紅 不 掃
梨 園 子 弟 白 髮 新
椒 房 阿 監 青 娥 老
夕 殿 螢 飛 思 悄 然
孤 燈 挑 盡 未 成 眠
遲 遲 鐘 鼓 初 長 夜
耿 耿 星 河 欲 曙 天
鴛 鴦 瓦 冷 霜 華 重
翡 翠 衾 寒 誰 與 共
悠 悠 生 死 別 經 年
魂 魄 不 曾 來 入 夢
臨 邛 道 士 鴻 都 客
能 以 精 誠 致 魂 魄
為 感 君 王 輾 轉 思
遂 教 方 士 殷 勤 覓
排 空 馭 氣 奔 如 電
升 天 入 地 求 之 遍
上 窮 碧 落 下 黃 泉
兩 處 茫 茫 皆 不 見
忽 聞 海 上 有 仙 山
山 在 虛 無 縹 緲 間
樓 閣 玲 瓏 五 雲 起
其 中 綽 約 多 仙 子
中 有 一 人 字 太 真
雪 膚 花 貌 參 差 是
金 闕 西 廂 叩 玉 扃
轉 教 小 玉 報 雙 成
聞 道 漢 家 天 子 使
九 華 帳 裡 夢 魂 驚
攬 衣 推 枕 起 徘 徊
珠 箔 銀 屏 迤 邐 開
雲 鬢 半 偏 新 睡 覺
花 冠 不 整 下 堂 來
風 吹 仙 袂 飄 飄 舉
猶 似 霓 裳 羽 衣 舞
玉 容 寂 寞 淚 闌 干
梨 花 一 枝 春 帶 雨
含 情 凝 睇 謝 君 王
一 別 音 容 兩 渺 茫
昭 陽 殿 裡 恩 愛 絕
蓬 萊 宮 中 日 月 長
回 頭 下 望 人 寰 處
不 見 長 安 見 塵 霧
唯 將 舊 物 表 深 情
鈿 合 金 釵 寄 將 去
釵 留 一 股 合 一 扇
釵 擘 黃 金 合 分 鈿
但 教 心 似 金 鈿 堅
天 上 人 間 會 相 見
臨 別 殷 勤 重 寄 詞
詞 中 有 誓 兩 心 知
七 月 七 日 長 生 殿
夜 半 無 人 私 語 時
在 天 願 作 比 翼 鳥
在 地 願 為 連 理 枝
天 長 地 久 有 時 盡
此 恨 綿 綿 無 絕 期

白 居 易


TRƯỜNG HẬN CA

Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành
Dưỡng tại thâm khêu nhân vị thức

Thiên sinh lệ chất nan tự khí
Nhất triều tuyển tại quân vương trắc
Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh
Lục cung phấn đại vô nhan sắc

Xuân hàn từ dục hoa thanh trì
Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi
Thị nhi phò khởi kiều vô lực
Thỉ thị tân thừa ân trạch thì

Vân mấn hoa nhan kim bộ diêu
Phù dung trường noãn độ xuân tiêu
Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi
Tùng thử quân vương bất tảo triều

Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ
Xuân tùng xuân du dạ chuyên dạ
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân
Tam thiên sũng ái tại nhất thân

Kim ốc trang thành kiều thị dạ
Ngọc lâu yến bải tuỳ hòa xuân
Tỉ muội đệ huynh giai liệt thổ
Khả lân quang thái sinh môn hộ

Toại lịnh thiên hạ phụ mẫu, tâm
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ
Ly cung cao xứ nhập thanh vân
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn

Hoãn ca mạn vũ ngưng ti trúc
Tận nhật quân vương khán bất túc
Ngư dương bề cổ động địa lai
Kinh phá nghê thường vũ y khúc

Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh
Thiên thừa vạn kị tây nam hành
Thuý hoa diêu diêu hành phục chỉ
Tây xuất đô môn bách dư lí

Lục quân bất phát vô nại hà
Uyển chuyển nga mi mã tiền tử
Hoa điền uỷ địa vô nhân thâu
Thuý kiều kim tước ngọc tao đầu

Quân vương yểm diện cứu bất đắc
Hồi khán huyết lệ tương hoà lưu
Hoàng ai tán mạn phong tiêu sách
Vân sạn oanh vu đăng Kiếm các

Nga mi sơn hạ thiểu nhân hành
Sinh kì vô quang nhật sắc bạc
Thục giang thủy bích Thục sơn thanh
Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình

Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh
Thiên triền địa chuyễn hồi long ngư
Đáo thử trù trừ bất năng khứ

Mã ngôi bi hạ nê thổ trung
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ
Quân thần tương cố tận triêm y
Đông vọng Đô môn tín mã qui

Qui lai trì uyển giai y cựu
Thái dịch phù dung Vị ương liễu
Phù dung như diện liễu như mi
Đối thử như hà bất lệ thùy

Xuân phong đào lí hoa khai nhật
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì
Tây cung nam nội đa thu thảo
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo

Lê viên tử đệ bạch phát tân
Tiêu phòng a giám thanh nga lão
Tịch diện huỳnh phi tư tiếu nhiên
Cô đăng khiêu tận vị thành miên

Trì trì chung cổ, sở trường dạ
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên
Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng
Phỉ thúy khâm hàn thùy dữ cọng

Du du sinh tử biệt kinh niên
Hồn phách bất tằng lai nhâp mộng
Lâm cùng đạo sĩ Hồng đô khách
Năng dĩ tinh thành tri hồn phách

Vị cảm quân vương triển chuyển từ
Toại giáo phương sĩ ân cần mịch
Bài không ngự khí bôn như điển
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến

Thượng cùng Bích lạc hạ Hoàng tuyền
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến
Hốt văn hải thượng hữu tiên san
San tại hư vô phiếu diếu gian

Lâu các linh lung ngũ vân khởi
Kỳ trung trác ước đa tiên tử
Trung hũu nhất nhân tự Thái chân
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị

Kim khuyết tây sương khấu ngọc toan
Chuyển giáo Tiểu ngọc báo Song thành
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh

Lãm y thôi chẫm khởi bồi hồi
Châu bạc ngân bình dĩ lệ khai
Vân cát bán thiên tân thụy giác
Hoa gian bất chỉnh hạ đường lai

Phong xuy tiên khuyết phiêu phiêu cử
Du tợ nghê thường vũ y vũ
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can
Lê hoa nhất chí xuân đái vũ

Hàm tình ngưng thêtá quân vương
Nhất biệt âm dương lưỡng điếu mang
Chiêu dương điện lý ân ái tuyệt
Bồng lai cung trung nhật nguyệt trường

Hồi đầu hạ vọng trần hoàn xứ
Bất kiến Trường An kiến trần vụ
Duy tương cựu vật biểu thâm tình

Điển hiệp kim thoa ký tương khứ
Thoa lưu nhất cổ hiệp nhất phiến
Thoa tịch hoàng kim hiệp phân điền
Đản giáo tâm tợ kim điền kiên

Thiên thượng nhân gian hội tương kiến
Lâm biệt ân cần trọng kí từ
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri
Thất nguyệt thất nhật Trường sinh điện
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì

Tại thiên nguyện tác tị dực điểu
Tại địa nguyện vi liên lí chí

Thiên trường địa cửu hữu thời tận
Thử hận mang mang vô tuyệt kỳ....

Bạch Cư Dị 

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Bạch Cư Dị



Bạch Cư Dị - 白居易
Trung Đường

Bạch Cư Dị tự là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ. Sinh vào năm thứ 7 niên hiệu Đại Lịch, đời Đường Đại Tông; mất vào năm thứ 6 niên hiệu Hội Xương, đời Đường Vũ Tông. Cùng tuổi với Lưu Vũ Tích, kém Hàn Dũ bốn tuổi, hơn Liễu Tông Nguyên một tuổi, Nguyên Chẩn bảy tuổị

Theo lời Bạch Cư Dị, ông là dòng dõi của tướng Bạch Khởi đời Tần, người phủ Thái Nguyên (tỉnh Sơn Tây). Đến đời tằng tổ là Bạch Ôn, mới dời sang Thiểm Tây, phía nam sông Vị; Ông sinh tại huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam.

Qua tờ thư Bạch Cư Dị gởi cho Nguyên Chẩn, người ta biết rằng ông có tư chất thông minh từ nhỏ: lúc mới sáu bảy tháng, tuy chưa nói được, nhưng đã nhận biết được các chữ "chi", "vô"; lúc năm sáu tuổi, đã học làm thơ, lên bảy tuổi, hiểu được thanh vận.

Thiếu thời, cùng gia đình ở Từ Châu (tỉnh Hà Nam), sau vì tránh loạn dời sang vùng Giang, Chiết. Năm 16 tuổi, mới đến Trường An. Lúc này, Bạch Cư Dị đã làm nhiều thơ văn. Ông đến yết kiến quan trước tác lang Cố Huống. Cố Huống chưa từng biết ông, nhân thấy tên ông là "Cư Dị" (ở dễ), nói đùa rằng: "Trường An ở không dễ đâu". Đến khi đọc hai câu trong bài "Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt": Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh (Lữa đồn đốt không hết; gió xuân thổi lại sinh), thì Cố Huống rất mực tán thưởng.

Đến lúc này, Bạch Cư Dị mới biết có khoa thi tiến sĩ. Từ đó ông chuyên cần học tập, "sáng làm phú, tối đọc sách, rồi lại làm thơ, không nghĩ đến ngủ, đến nổi miệng lưỡi mọc mụn, da tay dày cộp; đã lớn tuổi mà da thịt không được đầy đặn, chưa già nua mà răng đã long, tóc đã bạc".

Trong thời Trinh Nguyên, đời Đường Đức Tông, năm 28 tuổi, Bạch Cư Dị thi đậu tiến sĩ. Năm sau lại cùng Nguyên Chẩn thi đậu khoa Bạt tụy, rồi cùng được bổ làm hiệu thư lang tại bí thư tỉnh. Ít lâu sau, Bạch Cư Dị đổi ra làm huyện úy tại Trừu Trất tỉnh Sơn Tây; còn Nguyên Chẩn làm đến chức gián quan. Nguyên Chẩn và Lý Thán viết "Oanh Oanh truyện" và "Oanh Oanh ca"; còn Bạch Cư Dị và Trần Hồng thì làm ra "Trường Hận ca" và "Trường Hận truyện". Sau này Bạch Phác đời Nguyên dựa vào hai tác phẩm này, soạn ra vở tạp kịch "Đường Minh Hoàng thu dạ ngô đồng vũ".

Năm 807 (Nguyên Hòa thứ 2), Đường Hiến Tông triệu Bạch Cư Dị về kinh, phong làm Hàn Lâm học sĩ. Năm sau, lại phong làm tả thập di (gián quan). Lúc này Nguyên Chẩn đã thăng đến chức giám sát ngự sử. Bạch Cư Dị và Nguyên Chẩn thường cùng nhau xướng họa, và sáng tạo các bài tân nhạc phủ. Mười bài "Tần trung ngâm", và năm chục bài "Tân nhạc phủ" của Bạch Cư Dị đều được làm ra trong thời kỳ nàỵ Đó là những bài thơ phúng dụ, mà ông nói rằng:""vì vua, vì bề tôi, vì dân,v ì vật, vì sự mà làm ra, chứ không phải vì văn mà làm".

Trong khi làm gián quan, tính ông cương trực, mỗi khi dâng sớ bàn việc, thường làm phật lòng vua và các vị đại thần ... Một lần vua Hiến Tông định dùng hoạn quan làm chức chế quân thống lĩnh, ông cực lực can ngăn không được, lại bị vua giận, may mà không bị tội; Khi Nguyên Chẩn bị biếm, ông có vì bạn dâng sớ tâu xin, nhưng không có hiệu quả.

Năm 810, vì có mẹ già, nhà nghèo, Bạch Cư Dị tự xin đổi chức, được bổ ra làm hộ tào tham quân tại Kinh Triệu (thuộc Thiểm Tây). Năm sau, thân mẫu mất.

Năm 814, Bạch Cư Dị được triệu về kinh, phong làm chức Thái tử tả tán thiện đại phụ Gặp lúc phiên trấn có loạn, một số hoạn quan câu kết ám sát tể tướng Vũ nguyên Hành. Ông dâng sớ xin bắt thích khách. Vì việc này ông bị các đại thần hạch tội, và bị biếm ra làm thứ sử ở vùng ngoài sông Trường giang. Ông chưa đi đến nhiệm sở, thì lại có người đặt lời rao mưu hại nói rằng: trong khi mẹ nhân xem hoa mà té giếng chết, ông lại làm thơ "Thưởng hoa" và "Tân Tỉnh" (giếng mới), tổn thương đến danh giáọ Vì thế, ông bị biếm làm tư mã Giang Châu (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây). Tại đây, ông cất thảo đường ở dưới ngọn Hương Lô, núi Lư Sơn. Trong thời kỳ này, Bạch Cư Dị được hai tác phẩm nổi tiếng: bức thơ gởi cho Nguyên Cửu (Đữ Nguyên Cửu thư) và bài thơ trường thiên "Tỳ bà hành".

"Dữ Nguyên Cửu thư" là một bài phê bình văn nghệ, trong dó Bạch Cư Dị trình bày quan niệm của ông về sáng tác thơ văn. Theo ông, văn chương phải phản ảnh thời đại, bộc lộ hiện thực: "Làm văn chương phải cho hợp với thời đại; làm thơ ca phải cho hợp với sự việc". Còn "Tỳ bà hành" là bài thơ dài, trong đó ông mược câu chuyện của người thương phụ bến Tầm dương để tả niềm thương cảm của mình ở nơi đất trích.

Năm 818, Bạch Cư Dị dời đi giữ chức thứ sử tại Trung Châu (thuộc Tứ Xuyên). Năm sau được đổi về kinh. Rồi được thăng làm chức chủ kháchlang trung tri chế cáo (820). Lúc này, Nguyên Chẩn cũng được triệu hồi và làm chức ấỵ

Năm 821, (Trường Khánh nguyên niên, đời Đường Mục Tông), Bạch Cư Dị đổi làm chức Trung thư xá nhân. Vì dâng sớ không được toại ý, ông lại tự xin đổi ra ngoàị Năm sau, được đổi ra làm thứ sử Hàng Châu (tỉnh Chiết giang). Hết hạn, được bổ làm chức Thái tử tả thứ tử làm việc tại Đông đô (Lạc dương).

Trong thời Bảo Lịch (825) đời Kính Tông, lại đổi ra làm thứ sử Tô châu (tỉnh Giang tô).

Khi Văn tông lên ngôi (827), ông được triệu về kinh, giữ chức bí thư giám. Năm sau, chuyển làm hình bộ thị lang, phong tước Tấn dương huyện nam, được hưởng thực ấp 300 hộ

Năm 829, ông xưng bệnh, xin về đông; được phong làm Thái tử tân khách. Tại Lạc dương, ông mua nhà, đào ao, dựng quán, có gia kỹ Phàn Tố Man giỏi ca vũ, có hòn núi Thái hồ, chim hạc Hoa đình, sống những ngày thảnh thơi, đầy đủ (theo bài tựa Trì thượng thiên).

Năm 836 (Khai thành nguyên niên), đổi ra làm thứ sử Đông châu (tỉnh Thiểm Tây), nhưng ông xưng bệnh, không đi tựu chức. Ít lâu sau, được đổi làm Thái tử thiếu phó, tiến phong tước Phùng Dực huyện khai quốc hầụ

Năm 845 (Hội Xương thứ 5, đời Đường Vũ Tông), ông về hưu với hàm Hình bộ thượng thự Ông từng nói là "lòng nơi Thích Phạn, chân chốn Lão Trang". Lúc vãn niên, kết bạn với nhà sư Như Mãn, ở núi Hương sơn, tự xưng là Hương sơn cư sĩ (núi Hương sơn ở phía đông núi Long Môn, huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam).

Bạch Cư Dị mất vào năm 846, thọ 75 tuổị (theo Tân Đường thư và bài mộ chí của Lý thương Ẩn). Tác phẩm để lại gồm 3840 bài thơ văn.